Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 4: Nguồn tài liệu và sự phân loại các bộ phái

08/05/201319:51(Xem: 9134)
Chương 4: Nguồn tài liệu và sự phân loại các bộ phái
Các Bộ Phái Phật Giáo Ở Ấn Độ


Chương 4: Nguồn Tài Liệu Và Sự Phân Loại Các Bộ Phái

Thượng tọa Thích Nguyên Tạng
Nguồn: Dr.Nalinaksha Dutt.Thượng tọa Thích Nguyên Tạng

Trong tác phẩm “ Les Sectes Du Petit Vehicule” (1956)[1], Tiến sĩ Bareau đã nghiên cứu những truyền thống tư tưởng trình bầy nguồn gốc của các bộ phái theo thứ tự xuất hiện như sau :

1.Thời kỳ thứ nhất:truyền thống Tích Lan trong Ðảo Sử (Dipavamsa, thế kỷ thứ 4, tr TL), luận sư Phật Âm (Buddhaghosa) trong phần giới thiệu quyển sớ giải về Kathavatthu đã đưa thêm sáu bộ phái vào danh sách các bộ phái của Ðảo Sử, đó là: Vương An Trụ Bộ (Rajagirika), Nghĩa Thành Bộ (Siddatthika), Ðông Sơn Trụ Bộ ( Pubhaseliya, Tây Sơn Trụ Bộ ( Aparaseliya), Tuyết Sơn Bộ (Haimavata), Ðộc Tử Bộ ( Vajiriya), xếp bốn phái đầu vào phái Aùn-đa-la (Andhaka). Ngài nói tới một số quan điểm được coi là của Bắc Sơn Trụ Bộ (Uttarapathaka), Thuyết Nhân Bộ (Hetuvadin) và Vetullaka thuộc Ðại Thừa. Có lẽ phái Haimavata và Vajiriya được bao gồm trong phái Bắc-sơn-trụ-bộ. Trong truyền thống này còn có các phái Nhất Thuyết Bộ (Ekabboharikas), Thuyết Giả Bộ (Pannattivadin) và Ða Văn Bộ (Bahussutiya) là những chi phái miền nam của Ðại Chúng Bộ (Mahasanghikas).

II. Thời kỳ thứ hai:Truyền thống Chính Lượng Bộ (Sammitiya) của luận sư Bhavya xếp phái Haimavata trong nhóm Trưởng Lão Bộ (Sthavira), và coi Thuyết Nhân Bộ (Hetuvadin) là Nhất thiết Hữu Bộ (Sarvastivadin) . Truyền thống này là theo truyền thống Tích Lan trong ý niệm về các chi phái của Ðại Chúng Bộ (Mahasanghikas).

III. Thời kỳ thứ ba:Truyền thống Kashmir:

(a) Sariputra-pariprccha Sutra: của Ðại Chúng Bộ, không có bản nguyên thủy, bản dịch Hoa ngữ được thực hiện trong khoảng từ 327 đến 420 Tây lịch.

(b) “Samaya – bhedoparacana – cakra” của luận sư Vasumitra thuộc Sarvastivada. Có một bản dịch Tạng ngữ và ba bản dịch Hoa Ngữ vào khoảng 400 Tây lịch. Trong truyền thống này Haimavata được bao gồm trong nhóm Trưởng Lão Bộ.

(c) “Manjusri-Pariprccha-sutra”, chỉ có bản dịch Hoa ngữ được ngài Sanghapala thực hiện vào năm 518 Tây lịch. Trong quyển này Haimavata là một chi phái của Sarvastivada. Quyển này có vẻ có nhiều sai lầm nếu so sánh danh sách của nó với danh sách của Mahavyupati. Trong truyền thống này, các chi phái của Ðại chúng Bộ được kể thêm với bốn phái Thuyết Xuất Thế Bộ, Tây Sơn Trụ Bộ, Ðông Sơn Trụ Bộ và Bắc Sơn Trụ Bộ.

Vinitadeva và tác giả của “Bhiksuvarsagraprcha” chia mười tám bộ phái thành năm nhóm như sau:

Nhóm I và nhóm II:Ðại Chúng Bộ (Mahasanghika) bao gồm : Ðông Sơn Trụ Bộ, Tây Sơn Trụ Bộ, Tuyết Sơn Bộ, Thuyết Xuất Thế Bộ và Thuyết Giả Bộ.

Nhóm III:Nhất thiết Hữu Bộ (Sarvastivadin) bao gồm: Căn Bản Nhất thiết Hữu Bộ, Aåm Quang Bộ, Hóa Ðịa Bộ, Pháp Tạng Bộ, Ða Văn Bộ và một phần của Phân Biệt Thuyết Bộ (Vibhajyavada).

Nhóm IV:Chính Lượng Bộ (Sammitiya), bao gồm Kê Dẫn Bộ (Kaurukullaka), Avantaka, và Ðộc Tử Bộ.

Nhóm V:Trưởng Lão (Sthavira) bao gồm Chế Ða Sơn Bộ, Vô Uùy Sơn Trụ Bộ và Ðại Tự Phái (Mahaviharasin).


Dữ kiện và cách phân loại của Vinitadeva cho thấy thời gian ngài soạn tài liệu là về sau này . Trong bản liệt kê ngài bao gồm một số bộ phái xuất hiện trễ và loại bỏ một số bộ phái cũ, có lẽ không còn tồn tại trong thời gian của ngài, thí dụ như các bộ phái Nhất Thuyết Bộ, Kê Dẫn Bộ (Gokulika),Pháp Thượng Bộ và Hiền Trụ Bộ. Ðặc biệt đáng chú ý là ngài đã bao gồm cả những bộ phái ở Tích Lan : Jetavaniya ( tức Sagalika cùa Manavamsa và Mahaviharasin. Mộ điều đáng ghi nhận là phái Jetavania có lẽ chỉ bắt đầu xuất hiện trong đời vua Mahasena (thế ký thứ 5 TL).

Taranatha đã làm một việc rất quan trọng là so sánh và xác định tên của những bộ phái có trong các bản liệt kê của các luận sư Bhavya, Vasumitra, Vimitadeva và các vị khác. Sai khi ghi nhận mấy bản liệt kê kê khác nhau, ngài nhận thấy như sau:

Kasyapiya = Suvarsaka
Thuyết Chuyển Bộ (Samkrantivadin = Uttariya = Tamrasatiya
Chế Ða Sơn Bộ = Ðông Sơn Trụ Bộ = các phái của ngài Ðại Thiên.
Thuyết Xuất Thế Bộ = Kê Dẫn Bộ
Nhất Thuyết Bộ là tên phổ thông của Ðại Chúng Bộ
Kaurakutiaka, Vatriputriya, Dharmattariya, Bhradrayaniya và Channagarika gần như có cùng quan điểm với nhau.

Những điều nhận xét này giúp chúng ta truy nguyên phái Uttarapathaka của Kathavatha. Nên coi bộ phái này chính la phái Uttariya của luận sư Vasumitra hay Samkrantivadin của kinh sách Pali. Phái Thuyết Chyển Bộ (Samkrantivadin) còn được gọi là Tamrasatiya có lẽ vì y phục màu đồng của họ. Từ phái Tamrasatiya hay Uttarapathaka hay Samkrantivadin hay Darastantika phát sinh phái Kinh Lượng Bộ (Sautrantika) là phái thường được nói tới trong Samkarabhasya, Sarvadarsamasangraba và những quyển tương tự của các phùi triết học Aán giáo.

***

Khi so sánh những bản liệt kê của các phái, chúng ta sẽ thấy cách phân loại của những bản lliệt kê này khá giống nhau. Những chi phái của Ðại Chúng Bộ có thể được chia thành hai nhóm, nhóm thứ nhất xuất hiện trước gồm Mahasanghika Nguyên thủy (Ðại chúng bộ), Nhất Thuyết Bộ, Chế Ða Sơn Bộ hay Thuyết Xuất Thế Bộ. Theo Taranatha thì Ekavyavaharika và Mahasanghika gần như là một trung tâm chính của nhóm này ở thành Pataliputra.

Nhóm thứ nhì gồm những chi phái xuất hiện sau những chi phái thứ nhất. Họ được biết rộng rãi với tên gọi các phái saila hay Andhaka có trung tâm chính ở Amoravati hay Nagariunikonda. Có thể xếp cùng với những phái này là phái Ða Văn Bộ và Thuyết Giả Bộ. Bahusrutiya gống các phái Saila về giáo thuyết hơn là giống phái Mahasanghika, còn phái Prajnaptivadin được thành lập để phản đối giáo thuyết của Bahusrutiya.

Nhóm thứ ba gồm phái Hóa Ðịa Bộ (Mahisasaka) có trước, và phái Sarvastivadin (Nhất Thiết Hữu Bộ) với phái Mahinsasaka có sau. Pháp Tạng Bộ, Aåm Quang Bộ hay Samkrantika hay Uttarapathaka hay Tamrasatiya.

Nhóm thứ tư gồm phái Vajjiputtaka hay Ðộc Tử Bộ với Pháp Thượng Bộ và Hiền Trụ Bộ, Channagarika và Chính Lượng Bộ (Sammitiya) và cả phái Kaurukullaka. Trong nhóm này, gần như tất cả các phái đều nhập vào một phái Vatsiputriya, còn được gọi là Sammitiya.

Nhóm thứ năm là phái Trưởng Lão (Thượng Tọa Bộ/ Theravada) làm thành một nhóm với các bộ phái ở Tích Lan, đó là Jetavaniya (Chế Ða Sơn Bộ), Vô Uùy Sơn Trụ Bộ và Ðại Tự Phái như luận sư Vinitadeva cho biết.

(còn tiếp)




CHÚ THÍCH
[1] Bareau, Les Sectes Du Petit Vehicule” (BEFEO., 1956) pp. 16f
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/11/2014(Xem: 6833)
Roberto Baggio, 47 tuổi, gần đây đã mở một trung tâm Phật giáo ở ngoại ô thành phố Milan. Gần 1,000 người đã tập trung tại trung tâm Phật giáo lớn nhất châu Âu này. Baggio nói với các phóng viên, “ Điều quan trọng nhất của đời tôi là khi tôi tìm thấy Phật giáo. Ngày nay nhiều người đang cố gắng tìm hiểu triết lý này, vì vậy việc lập ra trung tâm này, trong một ý nghĩa nào đó, là khởi điểm của một dự án lớn.” Baggio được đám đông đón chào nồng nhiệt, và anh đã hướng dẫn một buổi thiền định tại đây. Thường được gọi với biệt danh (tóc) Đuôi ngựa Thần thánh, Baggio đã ghi bàn 27 lần trong 56 trận bóng đá cho đội tuyển Ý. Baggio cải đạo sang Phật giáo cách đây 27 năm và trở thành một trong những người Ý nổi tiếng nhất làm như vậy. Ghi bàn hơn 200 lần trong bóng đá Ý, Baggio được xem là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại ở đất nước này. (tipitaka.net – November 1, 2014)
07/11/2014(Xem: 32248)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
25/10/2014(Xem: 21061)
Trong bất cứ một cộng đồng nào đều có nhiều tầng lớp khác nhau, nhiều chủng loại con người khác nhau sống cùng trong đó, thì chắc chắn luôn có sự hiện diện của nhiều mặt tư tưởng khác nhau, phát sinh nhiều vấn đề liên quan. Vì vậy để gìn giữ một cuộc sống yên bình cho một cộng đồng, con người phải có nhiều phương pháp để hòa giải mọi sự khác biệt. Xuyên suốt trong lịch sử của loài người, đã có rất nhiều lời đề xuất để giải quyết, thậm chí phải sử dụng đến phương sách bạo động, chẳng hạn như chiến tranh, xung đôt nhằm giải quyết sự khác biệt.
21/10/2014(Xem: 10594)
Hans Küng, sinh năm 1928 tại Sursee, Thụy Sĩ, là Giáo sư Thần học hồi hưu thuộc Đại học Tübingen, Đức. Ông đã sáng lập Hiệp hội Đạo đức Thế giới (Stiftung Weltethos) mà hiện nay ông đang là Chủ tịch Danh dự. Với nhiều công trình nghiên cứu khoa học về các tôn giáo và các đóng góp to lớn về nỗ lực liên tôn cho hoà bình thế giới, ông được nhiều giải thưởng cao qúy và được vinh danh là một nhà tư tưởng quan trọng nhất đương đại. "Auf den Spuren des Buddha" là một trích đoạn từ trong tập hồi ký: “Erlebte Menschlichkeit, Erinnerungen“, Piper, München, Zürich, 2. Aufl. 2013, 377-403.
18/10/2014(Xem: 43891)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
16/10/2014(Xem: 10466)
Chaman Lan và một số học giả Hoa Kỳ cho rằng không phải ông Columbus đầu tiên tìm ra Châu Mỹ mà chính những người di dân Hindu từ Ấn Độ. Lý luận mới lạ này được dựa vào một số truyền thống thịnh hành ở Trung Mỹ và Mexico. Nhưng giả thiết này thiếu sự ủng hộ của bằng chứng văn học. Tuy nhiên chúng ta cũng có ít nhất là một điểm được ghi lại trong lịch sử Trung Hoa nói đến một đoàn tu sĩ Phật Giáo đến Châu Mỹ vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch và đã đưa Phật Giáo vào dạy cho những người dân ở đó.
17/08/2014(Xem: 20390)
Tín đồ Phật giáo tin rằng có một con người thật được tôn xưng là đức Phật, hay Đấng Giác Ngộ, đã nhận ra được trí huệ sáng suốt xa xưa, hay nói đúng hơn là từ vô thủy, của con người. Và ngài đã làm được điều này ở Bihar, Ấn Độ, vào khoảng từ năm 600 cho đến 400 trước Công nguyên – thời gian chính xác không được biết.
17/08/2014(Xem: 8571)
Vào thời đại Silla (Tân La) ở Hàn Quốc, khoảng hơn Nghìn năm trước, có một cậu bé tên là Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城) sống ở làng Moryang. Vì hoàn cảnh gia đình gặp phải khó khăn về kinh tế, cho nên cậu phải rày đây mai đó làm thuê mướn để đổi lấy bát cơm manh áo và phụ giúp gia đình. Một hôm, sau khi dự buổi thính pháp đàm của một vị Pháp sư giảng giáo lý Phật đà, cậu liền về nhà thuyết phục mẹ mình cúng dường mảnh ruộng vườn, tài sản duy nhất của gia đình để tích phúc đức.
26/05/2014(Xem: 10642)
New Delhi, India – Nhà truyền bá Phật giáo Toàn cầu đầu tiên của thế giới Anagarika Dharmapala và người đàn ông được nói đều nhiều nhất ở Ấn độ ngày nay, và có lẽ những người có quyền thành lập chính sách và đưa ra quyết định, Thủ tướng Ấn độ, ông Narendra Modi, đều có một số điểm chung. Cả hai đều sinh ngày 17 tháng 09 mặc dầu cách nhau 86 năm. Anagarika Dharmapala sinh ngày 17 tháng 09 năm 1864 và Narendra Modi chào đời ngày 17 tháng 09 năm 1950.
28/04/2014(Xem: 12661)
Chào mừng Đại lễ Phật Đản Vesak LHQ 2014 tổ chức tại Việt Nam, được sự hỗ trợ của Ban thư ký Đại lễ Vesak, một ê kíp gồm nhiều đạo diễn, quay phim kỳ cựu của Truyền hình An Viên (AVG) đã thực hiện bộ phim tài liệu 10 tập có nhan đề "Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]