Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dẫn nhập

07/05/201314:16(Xem: 9325)
Dẫn nhập
Các Bộ Phái Phật Giáo Ở Ấn Độ


Dẫn Nhập

Thượng tọa Thích Nguyên Tạng
Nguồn: Dr.Nalinaksha Dutt.Thượng tọa Thích Nguyên Tạng


Thật ngạc nhiên là ngay từ năm 1859 tức là hơn một thế kỷ trước, các học giả Âu châu đã quan tâm tới sự xuất hiện của các Bộ phái Phật giáo (PG) ở Ấn Ðộ, tuy nhiên họ chỉ nói tới tên của những phái này mà không bình luận gì cả. Bài viết sớm nhất là của St. Juliesn "Danh sách mười tám Bộ Phái Phật Giáo" đăng trong tạp chí Journal Asiatique vào năm 1859. Bài viết này được tiếp theo bởi M.V.Vasilief năm 1860, Rhys Davids và Oldenberg năm 1881, H. Kern năm 1884 và I.P.Minayeff năm 1884.

Sau đó là bản dịch từ tiếng Trung Hoa của tác phẩm nói về nói về mười tám phái ở Ấn Ðộ của luận sư Vasumitra (Thế Hữu) bởi giáo sư J.Masuda, giảng viên Ðại học Calcutta và đồng nghiệp của tác giả quyển sách này, đăng trong tạp chí "Asia major" tập II (1925) kèm theo là hai văn bản Tây Tạng về mười tám phái được viết bởi Bhavya và Vinitadeva, có tên là "Nikaya-bhedavibhanga" và "Samayabhedoparanacakia", theo thứ tự. Nên ghi nhận là tác phẩm của Vasumitra, có ba bản dịch tiếng Trung Hoa:

1. "Shi pa pu lun" được coi là của Kumarajiva (401-413) hoặc Paramatra (546-569).

2. "Bộ Chấp Dị Luận" của Paramartha (chân đế), được Masuda coi là chính xác hơn.

3. "Dị bộ tông luận" của Huyền Trang (662), được Masuda coi là bản dịch khá nhất.

Có bốn luận sư cùng mang tên Vasumitra: 1. Vasumitra của cuộc kết tập kinh điển thời vua Kaniska và là một trong các tác giả của luận thư "Mahavibhasa". 2. Vasumitra, của phái Sautrantika (Kinh Lượng bộ); 3.Vasumitra, của phái Sarvativada, xuất hiện khoảng một trăm năm sau khi Ðức Phật nhập niết bàn. 4. Vasumitra của Sarvastivada (Nhất thiết hữu bộ), người trình bày cho Huyền Trang giáo thuyết của phái này

Có điều lạ là không có quyển sách hay bài báo nào nói tới một quyển sách quan trọng của Luận Tạng Pali như "Kathavattha" (Luận Sự) được xuất bản năm 1897 và bản bình luận năm 1889 và bản dịch tiếng Anh của bà C.A.F. Rhys Davids có tên là "Những Ðiểm Tranh Luận" (1915).

Quyển " Rathavatthu" được coi là có từ thời Vua A-Dục ( Asoka), người bảo trợ cuộc Kết tập Kinh Ðiển lần thứ ba với sự chủ tọa của ngài Mục Liên Ðế Tu ( Moggliputta Tissa). Những đặc điểm của quyển này là:

(i). Trình bày giáo thuyết của các phái khác, thí dụ như nói về giáo thuyết của một phái ngoài phái Trưởng Lão ( Theravada).

(ii). Ðể cho phái khác phát biểu luận điểm của họ.

(iii). Hỗ trợ luận điểm của mình bằng cách trích dẫn lời Ðức Phật trong các Kinh hệ Nikaya và các kinh khác.

Sau khi cho các phái khác trọn quyền trình bày giáo thuyết của họ, vị chủ tọa Mục Liên Ðế Tu (Moggaliputta Tissa) dùng quan điểm của phái Trưởng Lão bác bỏ ý kiến của họ, và cũng trích dẫn từ " Buddhavacanas".

Tác giả quyển sách này không chỉ nghiên cứu phân tích những luận thư của Vasumitra, Bhavya và Vinitadeva, mà còn cả "Kathavatthu" và quyển bình luận " Kathavatthu" của Ngài Phật Âm (Buddhaghosa) cũng như " Abhidharmakosa-vyakhya", mà một bản tuyệt hảo đã dược giáo sư Wogihara xuất bản ở Nhật Bản, và "Sammitiya Nikaya Sastra" ( Tương Ưng Bộ Kinh ?) được giáo sư Venkataraman dịch từ bản chữ Hán và "Thủ bản Gilgit III" do tác giả quyển sách này biên soạn và xuất bản, chứa giới luật văn bản nguyên thủy của Mulasarastivada Vinaya (Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ), và Jnanaprasthana Sutra được phục hồi một phần từ tiếng Trung Hoa bởi Tỷ kheo Santi cũng thuộc Visvabharati.

Quyển sách này chấm dứt với phần kết luận, cố gắng cho thấy PG Ðại Thừa đã phát triển như thế nào như một hệ quả tự nhiên của quan điểm Ðại Chúng Bộ và như một sự phát triển của ý niệm Bồ Tát và Phật Thân trong "Thiên Nghiệp Thí Dụ"(Divyavadana) và "Soạn Tập Bá Duyên" (Avadana-sataka) được coi là của phái Nhất Thiết Hữu Bộ và cũng như một phản ứng đối với tính hiện thực Nhất Thiết Hữu Bộ và cho thấy Ðại Thừa đã vượt qua Tiểu Thừa ở cả hai mặt phổ thông và truyền bá như thế nào.

Phần phụ lục là bản tóm lược địa lý cổ Ấn Ðộ theo lời mô tả của Pháp sư Huyền Trang ( Hiuen-Tsang), và cũng trình bày sự phân tán của địa điểm Phật Giáo ở Ấn Ðộ cùng với phần tường thuật sơ lược về các bộ phái Phật Giáo theo lời kể của pháp sư Nghĩa Tịnh (I-tsing) và những nơi có sự hiện diện của những phái này trong khi ngài có mặt ở Ấn Ðộ, tức là khoảng nữa thế kỷ sau khi ngài Huyền Trang tới Ấn Ðộ.

Tôi muốn cảm ơn người bạn tri thức của tôi là Sri K. L. Mukhopadhay, người đã đề nghị tựa đề thích hợp cho tập sách này, giúp tôi giới hạn sự chú tâm của mình riêng vào các bộ phái ở Ấn Ðộ. Tôi đã rút tỉa được nhiều lợi ích từ quyển: Lịch sử Phật giáo Ấn Ðộ (Historie du Bouddhisme indien) của Giáo sư E.Lamotte, ông cũng đã xuất bản nhiều tác phẩm giá trị khác về Phật Giáo Ðại Thừa, tận dụng những bản dịch tiếng Trung Hoa của các văn bản tiếng Sanskrit vốn đã thất lạc. Tôi cũng cảm ơn sinh viên của tôi là nữ Tiến sĩ Ksanika Saha, đã soạn phần từ vựng.


NALINAKSHA DUTT
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/06/2016(Xem: 9469)
Tôi tới một miền quê, kề bên một trận địa vào một buổi chiều hoe nắng. Ở đây, cánh đồng loáng nước nằm dài vắng bóng người nông dân cần mẫn. Nhìn vào thôn xóm không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái im lìm ! Qua một đêm, ngủ đỗ, sáng hôm sau trở dậy lên đường. Trong ánh nắng sớm mai, đố ai biết có gì đổi khác. Nhìn vào thôn xóm vẫn không một bóng người, vẫn khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm. Nhưng giải đồng loáng nước chiều qua đã xanh rì ngọn mạ. Tôi nghĩ tới bóng trăng đêm trước, đến những đoàn người lũ lụt trở về đây, đến những bàn tay mềm mại cấy từng hàng mạ trên giải đồng rộng mênh mông. Trong lúc bom đạn cứ tơi bời trên các đô thành làng mạc, trong lúc chiến tranh cứ tiếp tục gieo rắc tang tóc và đổ nát thì ở đây, nguời dân ViệtNam thản nhiên gieo nguồn sống. Nhành lúa mới như một tuổi xuân vùng trổi dậy, tượng trưng cho sức sống mảnh liệt cho cả một dân tộc. (tác giả Thích Nhất Hạnh)
19/05/2016(Xem: 31859)
Bắt đầu từ ngày 06 tháng 4 năm 2016, cá biển tự nhiên và cá nuôi lồng bè của ngư dân ven biển chết hàng loạt, bắt nguồn từ khu kinh tế Vũng Áng (thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh), lan xuống các tỉnh lân cận (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng…) suốt dọc trên 200 cây số bờ biển. Ngay cả rạn san hô, “nhà ở” của các sinh vật dưới biển, cách bờ biển từ 1-6 hải lý, chạy dài từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh Quảng Bình, cũng đã bị phá hủy trong các đợt cá chết vừa qua; san hô chết, nhiều sinh vật biển chết theo (theo báo cáo ngày 06.5.2016 của chính quyền địa phương thôn Nhân Nam, xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình).
09/04/2016(Xem: 16574)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
19/01/2016(Xem: 6613)
Năm nay, 2016, đánh dấu 50 năm Phật Giáo Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ, tính từ năm 1966, khi mà Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân đến Mỹ dạy tại Đại Học UCLA và ở lại luôn để truyền bá Phật Giáo Việt Nam tại đây. Vì vậy, Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân là vị sơ tổ của Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ. Nhưng trước hết xin nhìn thoáng qua một chút về bối cảnh Phật Giáo Mỹ.
06/01/2016(Xem: 19794)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
06/07/2015(Xem: 12835)
(Bài này được trích dịch từ tài liệu có tên “Những Giới Hạn Trong Các Vùng Biển” (Limits In The Seas) mang số 143 với tựa đề “Trung Quốc: Tuyên Bố Chủ Quyền Biển Trong Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)” (China: Maritime Claims In The South China Sea) được Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Vùng Cực (Office of Ocean and Polar Affairs), Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Môi Trường và Khoa Học Quốc Tế (Bureau of Ocean and International Environmental and Scientific Affairs) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (US Department of State) công bố ngày 5 tháng 12 năm 2014 – (Nguồn: http://www.state.gov/documents/organization/234936.pdf ). Mục đích của nghiên cứu này là để xem xét tuyên bố về biển và/hay các biên giới của Bộ Ngoại Giao và đánh giá sự phù hợp với luật quốc tế. Nghiên cứu này đại diện quan điểm của Chính Phủ Hoa Kỳ chỉ đối với những vấn đề đặc biệt được thảo luận trong đó và không nhất thiết phản ảnh sự chấp thuận những giới hạn được tuyên bố. Các phân tích gia chính cho nghiên cứu này là Kevin Baumert
27/04/2015(Xem: 10320)
Tờ Thời Luận San Francisco (San Francisco Chronicle) một nhật báo lớn của Mỹ, ngày 17 tháng 9 năm 2008 có đăng một bài mang tựa: "Đạo Ki-tô đang phát triển nhanh chóng ở Mông Cổ, các nhà truyền giáo đã cải đạo cho hàng nghìn người trong khi những người Phật Giáo đang nơm nớp lo sợ là truyền thống văn hóa của mình sẽ bị mất đi" (Christianity growing fast in Mongolia, Missionaries convert thousands while Buddhists fear losing traditional culture), tác giả là Michael Khon một ký giả trong nhóm bình luận gia thời sự quốc tế trong ban biên tập của tờ báo này. Bài báo khá xưa, cách nay đã hơn sáu năm, thế nhưng cũng không hẳn là lỗi thời, bởi vì tình trạng trên đây chẳng những vẫn còn đang tiếp diễn ở Mông Cổ mà cả nhiều nơi khác trên thế giới. Bài báo cũng đã được một trang mạng Phật Giáo có tầm cỡ quốc tế với 9 thứ tiếng khác nhau là Buddachannel dịch sang tiếng Pháp và đăng tải ngày 6 tháng 2 năm 2009, với tựa ngắn hơn: "Phật Giáo Mông Cổ đang bị mất đà" (Le Bouddhisme Mongol en perte de
19/04/2015(Xem: 13739)
Từ Đàm là ngôi chùa cổ mà không cổ. Chùa cổ, nếu tính theo năm sinh, khoảng 1690. Khi chùa khai sinh, Trịnh Nguyễn hãy còn phân tranh, mỗi mái chùa dựng lên ở phương Nam là mỗi bước chân mở đường Nam tiến sống chết của dân tộc.
19/04/2015(Xem: 3897)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại học ở Trung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” (năm 1912 chính phủ Dân Quốc thành lập đổi tên thành Đại Học Bắc Kinh) năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên. Trước năm 1920, Đại học ở Trung Quốc đều là dân lập như Đại học Đông Ngô, Đại học Tế Lỗ, Đại học Saint Jonhs. Theo tư liệu thống kê vào lúc đó trên 80% sinh viên đều theo học tại các trường Đại học do giáo hội Cơ Đốc giáo (đạo Chúa và đạo Tin Lành) thành lập.
29/01/2015(Xem: 6559)
Theo thời gian lịch sử và không gian vật lý, thì đệ tử Như Lai đều cho rằng núi Thiếu và khe Tào (Tào khê) là địa danh gắn liền với hành trạng Tổ Đạt Ma và Huệ Năng. Bởi đó là Đạo trường hành đạo giáo hóa của các Tổ sư. Đạo trường với quy ước vật lý này đánh dấu những nỗ lực bình sinh sau cùng để các Chân nhân Tổ sư “ung dung xô cửa huyền vi bước vào Đạo”. Để rồi cánh cửa ấy khai phóng nguồn năng lượng siêu nhiên tuôn chảy miên tục, “chắp cánh cho Đạo mầu bay vào cát bụi của kiếp người”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]