Số 27-7/HĐĐH/HC/TB Phật Lịch 2567, Sydney ngày 10/05/2023
THÔNG BẠCH PHẬT ĐẢN PL 2567
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch Chư Tôn Hòa Thượng, chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni,
Kính thưa quý nam nữ Phật tử,
Ngược dòng thời gian, hơn hai mươi sáu thế kỷ trước, một bậc vĩ nhân xuất hiện dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn, khi bình minh vừa ló dạng vào buổi ban mai ngày Rằm tháng Tư âm lịch. Đó là Thái tử Tất Đạt Đa, con Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia.
Sự xuất hiện của Ngài đã chiếu soi các quan niệm sai lầm đương thời, khi con người còn tin vào việc đem cả cuộc đời và sự sống giao phó cho các đấng thần linh quyền năng định đoạt. Con người chỉ biết phủ phục phụng mạng chịu sự ban ơn giáng họa từ các đấng siêu nhiên. Đức Phật đã giành lấy sự quyết định đó là từ sự vươn lên của con người bằng tư duy của trí tuệ và nỗ lực của tự thân. Mình làm chủ tể của chính mình. Vì vậy Ngài đã dạy "hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi".
Mỗi chúng sanh là hải đảo của chính mình, là oai linh tối thượng, là Phật chưa hiển lộ của mình. Nếu tinh tấn tu tập sẽ được giác ngộ giải thoát mà không cần nhờ đến một đấng thần linh, thượng đế nào ban bố hay giúp đỡ.
Một người biết tự chủ quyết định đời mình, nhiều người như vậy và rộng ra cả một cộng đồng thì số đông đó sẽ giữ vững được quyền dân tộc tự quyết, sự độc lập của một quốc gia. Chính tư tưởng này đã khai phóng con người không còn chịu dưới sự thống trị của người khác.
Sự xuất hiện của Đức Phật tại thế gian đã xóa tan sự phân chia của bốn giai cấp xã hội lúc bấy giờ, từ quan niệm tín ngưỡng sai lầm cho rằng tầng lớp cao cấp là hàng Giáo sĩ Tăng lữ Bà La Môn và vua chúa quan quyền và tầng lớp hạ cấp là hàng công nhân, nông dân thương gia và hạng tôi tớ nô lệ. Sự bất công phân biệt giai cấp này đang hoành hành đè nặng cuộc sống hai giai cấp thấp kém là một thống khổ cùng cực trong xã hội.
Khi còn sống trong nhung lụa chốn hoàng cung, Thái tử Tất Đạt Đa thường thân cận gần gũi với tất cả dân chúng, bất kể họ thuộc giai cấp nào. Vì Ngài thấy rõ nỗi đau khổ của kiếp người theo luật vô thường sanh già bệnh chết không chừa bỏ một ai nên Ngài đã dạy "không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn".
Vì vậy sau khi đắc đạo thành Phật, trong Giáo đoàn các đệ tử Tỳ kheo, Tỳ Kheo Ni của Ngài đều có thể thăng tòa thuyết pháp cho tất cả cư sĩ nam nữ, từ vua quan cho đến dân chúng mọi thành phần trong xã hội, mà không cần xét đến nguồn gốc xuất thân của vị Tỳ kheo thuyết pháp thuộc giai cấp nào. Vì địa vị được tôn quý hay hèn mọn là xét đến đạo hạnh, phạm hạnh hay thánh hạnh của vị đó. Địa vị cao quý hay thấp hèn không phải xuất thân từ dòng tộc.
Ngài đã tuyên dương giáo lý nhân quả như một định luật tất yếu. Gieo nhân lành được quả tốt, gieo nhân xấu phải gặt hái bất hạnh. Đây là một định đề để đánh thức sự tự chủ của con người, phải tự ý thức và hành động theo tiến trình nhân quả để tự giải thoát kiếp sống nhân sinh, từ khi còn vô minh của chúng sinh cho đến lúc giác ngộ đại giải thoát. Hạnh phúc an lạc là do chính chúng ta biết làm chủ thân khẩu ý của mình, an trú trong chánh pháp của Phật dạy. Hạnh phúc không phải cầu xin ơn trên ban bố. Một người cố công làm việc, tất được nhiều của cải, chăm chỉ học hành tất được hiểu biết rộng rãi, tinh tấn tu tập tất được kiến giải đắc đạo. Đây là kết quả tất yếu của đạo lý nhân quả. Hãy tự mình nương tựa nơi mình để chuyên thân hành đạo, nương tựa nơi chánh pháp để trực hướng Niết bàn đạt ngộ.
Suốt 49 năm ròng rã dấu chân Đức Phật đã trải dài in sâu theo bờ cát sông Hằng. Để rồi 2567 năm qua, kể từ khi Ngài nhập Niết bàn, pháp âm vi diệu hằng lưu truyền qua bao thế hệ của Lịch Đại Tổ Sư, chư Tăng tiền bối. Giáo pháp giải thoát được chuyển tải bằng trí tuệ giác ngộ và công hạnh tu tập hoằng khai do chư Tổ Sư, chư Tăng già thế thế truyền thừa. Phật pháp được mọi người đón nhận kính tín Tam Bảo do tâm tự phát tự nguyện, sau khi đã được tư duy và chọn lựa. Vì vậy lịch sử truyền bá Phật giáo từ ngàn xưa đến nay, chưa bao giờ tổn hại đến xương máu hay tánh mạng của bất cứ một ai. Không bao giờ dùng những kỹ xảo như tình yêu luyến ái, hạnh phúc gia đình, cứu tế vật chất, giúp đỡ khó khăn, thăng quan tiến chức, danh vọng địa vị để áp bức, chèn ép hay bắt buộc một ai phải theo đạo Phật.
Đạo Phật đến với mọi người được tuyển trạch bằng trí và đón nhận bằng tâm hoan hỉ.
Đạo Phật đến với chúng sanh để chỉ rõ bản chất cuộc đời là đau khổ, nguyên nhân của sự khổ và con đường thoát khổ để đi đến cứu cánh
an lạc giải thoát.
Đạo Phật đến với chúng sanh để đem lại giá trị bình đẳng giữa người và người, giữa con người với muôn loài chúng sanh, giữa chúng sanh và Đức Phật. Vì thế Đức Phật đã thường dạy: " Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành".
Sự tự do và bình đẳng tuyệt đối này chỉ có trong đạo Phật. Nhưng một khi sự tự do và công bằng bị đe dọa bức hại thì người con Phật chỉ đấu tranh bằng phương thức bất bạo động, thậm chí đôi khi phải tự hy sinh luôn cả thân mạng của mình. Điển hình như sự tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức và các Thánh tử đạo năm 1963.
Kỷ niệm ngày đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta hãy tiếp tục thắp sáng ánh đạo vàng lan tỏa khắp mọi thời gian và không gian. Lấy trí tuệ từ trong giáo pháp của Ngài để xóa tan mê mờ tăm tối của nhân gian. Lấy từ bi như lòng từ của Đức Phật để xoa dịu nỗi đau cho chúng sanh. Lấy tâm đại hùng đại lực để bảo vệ chánh pháp như các bậc tiền nhân đã vị pháp vong thân khi Phật pháp bị cường quyền đàn áp, đối xử bất công.
Chư Tôn Đức Tăng Ni, quý thành viên tự viện, các đạo tràng nam nữ cư sĩ Phật tử tùy duyên theo hoàn cảnh sở tại thiết trí lễ Đản sanh, dâng hương, cúng hoa quả phẩm cụ trần, ca vịnh tán thán cúng dường Đức Thế Tôn thị hiện đản sanh, tụng kinh bái sám thuyết pháp lợi sanh. Nhắc lại công đức bảo vệ chánh pháp của Bồ Tát Thích Quảng Đức.
Cầu nguyện Phật pháp trường tồn, nhân sanh an lạc, thiên tai đại dịch, chiến nạn đao binh sớm tận tiêu trừ. Tất cả chúng sinh đều được thấm nhuần Phật pháp, an vui tu tập, luôn tắm mình trong ánh đạo từ bi.
Kính thưa quý nam nữ Phật tử,
Ngược dòng thời gian, hơn hai mươi sáu thế kỷ trước, một bậc vĩ nhân xuất hiện dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn, khi bình minh vừa ló dạng vào buổi ban mai ngày Rằm tháng Tư âm lịch. Đó là Thái tử Tất Đạt Đa, con Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia.
Sự xuất hiện của Ngài đã chiếu soi các quan niệm sai lầm đương thời, khi con người còn tin vào việc đem cả cuộc đời và sự sống giao phó cho các đấng thần linh quyền năng định đoạt. Con người chỉ biết phủ phục phụng mạng chịu sự ban ơn giáng họa từ các đấng siêu nhiên. Đức Phật đã giành lấy sự quyết định đó là từ sự vươn lên của con người bằng tư duy của trí tuệ và nỗ lực của tự thân. Mình làm chủ tể của chính mình. Vì vậy Ngài đã dạy "hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi".
Mỗi chúng sanh là hải đảo của chính mình, là oai linh tối thượng, là Phật chưa hiển lộ của mình. Nếu tinh tấn tu tập sẽ được giác ngộ giải thoát mà không cần nhờ đến một đấng thần linh, thượng đế nào ban bố hay giúp đỡ.
Một người biết tự chủ quyết định đời mình, nhiều người như vậy và rộng ra cả một cộng đồng thì số đông đó sẽ giữ vững được quyền dân tộc tự quyết, sự độc lập của một quốc gia. Chính tư tưởng này đã khai phóng con người không còn chịu dưới sự thống trị của người khác.
Sự xuất hiện của Đức Phật tại thế gian đã xóa tan sự phân chia của bốn giai cấp xã hội lúc bấy giờ, từ quan niệm tín ngưỡng sai lầm cho rằng tầng lớp cao cấp là hàng Giáo sĩ Tăng lữ Bà La Môn và vua chúa quan quyền và tầng lớp hạ cấp là hàng công nhân, nông dân thương gia và hạng tôi tớ nô lệ. Sự bất công phân biệt giai cấp này đang hoành hành đè nặng cuộc sống hai giai cấp thấp kém là một thống khổ cùng cực trong xã hội.
Khi còn sống trong nhung lụa chốn hoàng cung, Thái tử Tất Đạt Đa thường thân cận gần gũi với tất cả dân chúng, bất kể họ thuộc giai cấp nào. Vì Ngài thấy rõ nỗi đau khổ của kiếp người theo luật vô thường sanh già bệnh chết không chừa bỏ một ai nên Ngài đã dạy "không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn".
Vì vậy sau khi đắc đạo thành Phật, trong Giáo đoàn các đệ tử Tỳ kheo, Tỳ Kheo Ni của Ngài đều có thể thăng tòa thuyết pháp cho tất cả cư sĩ nam nữ, từ vua quan cho đến dân chúng mọi thành phần trong xã hội, mà không cần xét đến nguồn gốc xuất thân của vị Tỳ kheo thuyết pháp thuộc giai cấp nào. Vì địa vị được tôn quý hay hèn mọn là xét đến đạo hạnh, phạm hạnh hay thánh hạnh của vị đó. Địa vị cao quý hay thấp hèn không phải xuất thân từ dòng tộc.
Ngài đã tuyên dương giáo lý nhân quả như một định luật tất yếu. Gieo nhân lành được quả tốt, gieo nhân xấu phải gặt hái bất hạnh. Đây là một định đề để đánh thức sự tự chủ của con người, phải tự ý thức và hành động theo tiến trình nhân quả để tự giải thoát kiếp sống nhân sinh, từ khi còn vô minh của chúng sinh cho đến lúc giác ngộ đại giải thoát. Hạnh phúc an lạc là do chính chúng ta biết làm chủ thân khẩu ý của mình, an trú trong chánh pháp của Phật dạy. Hạnh phúc không phải cầu xin ơn trên ban bố. Một người cố công làm việc, tất được nhiều của cải, chăm chỉ học hành tất được hiểu biết rộng rãi, tinh tấn tu tập tất được kiến giải đắc đạo. Đây là kết quả tất yếu của đạo lý nhân quả. Hãy tự mình nương tựa nơi mình để chuyên thân hành đạo, nương tựa nơi chánh pháp để trực hướng Niết bàn đạt ngộ.
Suốt 49 năm ròng rã dấu chân Đức Phật đã trải dài in sâu theo bờ cát sông Hằng. Để rồi 2567 năm qua, kể từ khi Ngài nhập Niết bàn, pháp âm vi diệu hằng lưu truyền qua bao thế hệ của Lịch Đại Tổ Sư, chư Tăng tiền bối. Giáo pháp giải thoát được chuyển tải bằng trí tuệ giác ngộ và công hạnh tu tập hoằng khai do chư Tổ Sư, chư Tăng già thế thế truyền thừa. Phật pháp được mọi người đón nhận kính tín Tam Bảo do tâm tự phát tự nguyện, sau khi đã được tư duy và chọn lựa. Vì vậy lịch sử truyền bá Phật giáo từ ngàn xưa đến nay, chưa bao giờ tổn hại đến xương máu hay tánh mạng của bất cứ một ai. Không bao giờ dùng những kỹ xảo như tình yêu luyến ái, hạnh phúc gia đình, cứu tế vật chất, giúp đỡ khó khăn, thăng quan tiến chức, danh vọng địa vị để áp bức, chèn ép hay bắt buộc một ai phải theo đạo Phật.
Đạo Phật đến với mọi người được tuyển trạch bằng trí và đón nhận bằng tâm hoan hỉ.
Đạo Phật đến với chúng sanh để chỉ rõ bản chất cuộc đời là đau khổ, nguyên nhân của sự khổ và con đường thoát khổ để đi đến cứu cánh
an lạc giải thoát.
Đạo Phật đến với chúng sanh để đem lại giá trị bình đẳng giữa người và người, giữa con người với muôn loài chúng sanh, giữa chúng sanh và Đức Phật. Vì thế Đức Phật đã thường dạy: " Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành".
Sự tự do và bình đẳng tuyệt đối này chỉ có trong đạo Phật. Nhưng một khi sự tự do và công bằng bị đe dọa bức hại thì người con Phật chỉ đấu tranh bằng phương thức bất bạo động, thậm chí đôi khi phải tự hy sinh luôn cả thân mạng của mình. Điển hình như sự tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức và các Thánh tử đạo năm 1963.
Kỷ niệm ngày đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta hãy tiếp tục thắp sáng ánh đạo vàng lan tỏa khắp mọi thời gian và không gian. Lấy trí tuệ từ trong giáo pháp của Ngài để xóa tan mê mờ tăm tối của nhân gian. Lấy từ bi như lòng từ của Đức Phật để xoa dịu nỗi đau cho chúng sanh. Lấy tâm đại hùng đại lực để bảo vệ chánh pháp như các bậc tiền nhân đã vị pháp vong thân khi Phật pháp bị cường quyền đàn áp, đối xử bất công.
Chư Tôn Đức Tăng Ni, quý thành viên tự viện, các đạo tràng nam nữ cư sĩ Phật tử tùy duyên theo hoàn cảnh sở tại thiết trí lễ Đản sanh, dâng hương, cúng hoa quả phẩm cụ trần, ca vịnh tán thán cúng dường Đức Thế Tôn thị hiện đản sanh, tụng kinh bái sám thuyết pháp lợi sanh. Nhắc lại công đức bảo vệ chánh pháp của Bồ Tát Thích Quảng Đức.
Cầu nguyện Phật pháp trường tồn, nhân sanh an lạc, thiên tai đại dịch, chiến nạn đao binh sớm tận tiêu trừ. Tất cả chúng sinh đều được thấm nhuần Phật pháp, an vui tu tập, luôn tắm mình trong ánh đạo từ bi.
Nam mô Lâm Tỳ Ni Viên Vô Ưu Thọ Hạ Thị Hiện Đản Sanh Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
TM. Hội Đồng Điều Hành
Hội Chủ
(Xem bản pdf có ấn ký)
TM. Hội Đồng Điều Hành
Hội Chủ
(Xem bản pdf có ấn ký)
Hòa Thượng Thích Tâm Minh
Gửi ý kiến của bạn