Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chùa Đậu, một di sản quý

10/04/201314:08(Xem: 8140)
Chùa Đậu, một di sản quý


Chùa Đậu, một di sản quý
Với những báu vật, những điều bí ẩn

Thích Thanh Nhung

Chùa Đậu vốn là Thành Đạo Tự nằm ở cuối làng Gia-Phúc xã Nguyễn Trãi huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây, cách Hà-Nội 21 km về phía Nam. Chùa có 5 tên gọi : 

1. THÀNH ĐẠO TỰ
2. PHÁP VŨ TỰ
3. CHÙA VUA
4. CHÙA BÀ
5. CHÙA ĐẬU

Chùa là một trong bốn ngôi chùa thờ Tứ Pháp (Vân,Vũ, Lôi, Điện tức là Mây, Mưa, Sấm, Chớp), trung tâm phát sinh Tứ Pháp là thành Luy lâu nay thuộc hai huyện Gia Lương và Thuận-Thành tỉnh Hà Bắc. Hệ thống Tứ Pháp gắn liền với sự tích Chùa Đậu. Trong cuốn sách bằng đồng có từ thời Sĩ Nhiếp đầu thế kỷ thứ III (200 - 210) hiện còn cất giữ tại Chùa có ghi rõ sự tích nàng Man Nương và Phật giáo Ấn độ du nhập vào Việt Nam. 

dautemple


mặt tiền Chùa Đậu


Cách đây gần 2000 năm Chùa Đậu đã nổi tiếng là nơi linh thiêng ứng nghiệm, mọi người cho rằng về tới nơi đây là đến nơi đất Phật. Gần đây hơn 300 năm, có hai Thiền Sư thành đạo tại Chùa. 

Phật Giáo du nhập vào Việt-Nam bằng đường thủy và đường bộ, nói tới lịch sử Phật giáo Việt-Nam người ta không thể quên câu chuyện được thần thánh hóa về nguồn gốc phát sinh Tứ Pháp. 

Đất nước Việt-Nam nằm ở vùng nhiệt đới, Tứ Pháp ra đời là phù hợp với nguyện vọng của người dân Việt-Nam. 

Cuốn sách đồng ở Chùa cho biết, ngay từ buổi đầu nền Phật Giáo Việt Nam đã tiếp thu và hấp thụ được tinh hoa của nền Phật Giáo Ấn độ. 

Tứ Pháp ra đời mang chủng tử của một Thiền tăng đã đắc đạo người Thiên Trúc, người mẹ là nàng Man Nương Việt-Nam. Thành công của tín, hạnh, nguyện đã làm cho Man-Nương trở thành Đức Thánh Mẫu sinh Thánh Tử, đúng như câu kệ của Thiền Tăng đã đọc: 

Hình hài như đạo thứ
Tâm không cảnh cũng không
Lần nữa chưa giác ngộ
Ứng vật vạn duyên cùng
(Trích sách đồng) 

Người Việt Nam đã kế thừa và phát huy được tinh hoa của nền Phật Giáo Ấn độ, nhưng vẫn mang bản sắc riêng của dân tộc. Sĩ Nhiếp làbậc hiền tài được nhân dân tôn trọng như Vua nên được gọi là Sĩ Vương đã thừa nha? điều nầy: 

Nước Nam sông núi dáng thần linh
Văn hiến mở khai dạng Phật kinh
Thánh Mẫu quả nhiên sanh Thánh tử
Mưa lành nhuần tưới giúp dân sinh
(Trích sách đồng) 

Qua bốn danh hiệu, bốn ngôi chùa thờ bốn vị Bồ Tát về Tứ Pháp, đã toát lên tính tiểu thừa và đại thừa :Chùa Thiền định, Chùa Thành Đạo, Chùa Phi Tướng, Chùa Trí Qua?/font>. Trong Tứ Pháp, Đức Pháp Vân là chị cả, phần quyết định là Đức Pháp vũ. Tục ngữ Việt Nam có câu: "Quý vật tầm quý nhân". 

Lúc đó ở phía Nam kinh thành như có luồng linh khí. Quách Thông theo lệnh Vua, về tới đất Gia-Phúc thấy thế đất trông tựa dáng hình một đôi hoa sen đang nở tỏa sáng, Quách Thông trình Sĩ Nhiếp, Sĩ Nhiếp cho rằng hoa sen là nơi đất Phật bèn cho lập chùa đặt tên là Thành Đạo Tự, rước Đại Thánh Pháp Vũ Đại Bồ Tát về thờ nên gọi là Pháp Vũ Tự. Do Nhà Vua chọn đất làm Chùa và chỉ dành cho bậc Vua Chúa đến lễ, người dân chỉ được vào lễ trong ba ngày hội nên gọi là Chùa Vua. Bồ Tát hiện thân Nữ nên gọi là Chùa Bà. Bậc trí sĩ cầu nghiệp lớn được đậu đạt, người dân trồng cây ra hoa đậu hoa, ra quả đậu quả từ đó trong dân gian gọi là Chùa Đậu (Chữ Đậu cũng là chữ rút gọn từ chữ Thành Đạo). 

Tả cảnh đẹp nơi chùa và công đức vô lượng đó, Sĩ Nhiếp đề thơ rằng : 

Đồng bằng bát ngát nẩy Tòa Sen 
Phật ngự trang nghiêm tựa Thiên Tiên
Đất phúc xây lên cung nguyệt điện
Trời Nam riêng hẳn cảnh thiên nhiên
Nén hương khói tỏa tan niềm tục
Hồ ngọc trăng soi rõ cửa Thiền
Công đức từ bi bao xiết kể
Công lao vô lượng, lại vô biên
(Trích sách đồng) 

Trải qua nhiều thời đại, bút tích lưu lại còn in đậm nét trên bia đá tại chùa, công nhận là nơi linh thiêng, ứng nghiệm, nước cầu dân khẩn đều được, đúng như lời thơ tả : Phật ngự trang nghiêm trên toà sen, nơi đất phúc của đạo tâm, trời Nam dành riêng cho cảnh đẹp nơi đây, nén hương khói toả làm tan hết những gì mệt nhọc, ô trọc của trần tục, chỉ thấy một niềm an lạc giải thoát. Cửa thiền là nơi thanh tịnh, như hồ nước vắng lặng, trong suốt chẳng khác gì ngọc, ánh trăng dịu hiền tỏa sáng soi thấu cửa thiền ? 

Nên ngày xưa người Việt-Nam tự hào đã hấp thụ được tinh hoa của nền Phật Giáo Ấn-Độ thì hơn 300 năm trước có hai Thiền Sư Việt-Nam đã đắc đạo tại chùa - nơi đất Phật các Ngài đã để toàn thân xá lợi. Để lại xá lợi là khi viên tịch, các Thiền sư sẵn có lửa tam muội và đã dùng lửa tam muội để thiêu thân, tính chất của lửa tam muội là đốt cháy được những lửa khác, làm cho các lửa khác không đốt cháy được, xá lợi đốt không cháy, ngâm trong nước không tan, không bị thời gian bào mòn. Quy luật của vũ trụ là : Vật chất chỉ có biến đổi từ dạng nầy sang dạng khác mà theo Phật Giáo gọi là thành, trụ, hoại, không. Xá lợi không bị chi phối bởi quy luật vũ trụ, chính vì vậy là một vật báu, là Quốc bảo thiêng liêng, được cung kính như đức Phật sống. Theo quy luật của đạo Phật, xá lợi chỉ để lại trên trái đất 5% đến 10% của toàn thân xá lợi nên gọi la?toát thân xá lợi. Toàn thân xá lợi là để lại toàn thân thể không thiếu thứ gì, song với thời gian nào đó 10 năm, 200 năm hay 2000 năm v.v. là do Thiền Sư ấy quyết định, toàn thân xá lợi sẽ chuyển về toát thân xá lợi. 

Phật Giáo ở các nước trên thế giới như Ấn Độ, Tây-Tạng, Trung-Hoa, Tích-Lan (Srilanca), Nhật-Bản v.v. đều có những pho toàn thân xá lợi. 

Tương truyền ở Ấn-Độ còn pho toàn thân của Sư Tổ Ma-Ha-Ca- Diếp Tôn-Giả ; ở Tây Tạng có tháp thờ toàn thân xá lợi của Tổ Sư Liên Hoa Sinh Thương Nhân Tố Đạt-Lai-Đạt-Ma; ở Trung-Hoa có toàn thân xá lợi của Đức Lục-Tổ Huệ Năng hiện thờ tại chùa Nam-Hoa, Huyện Khúc Giang, tỉnh Quảng Đông, tại chùa Vân môn, tỉnh Thiên-Chân thờ toàn thân của Tổ Vân-Môn-Văn-Yến Thiền Sư và toàn thân của Ngài Từ-Hàng-Pháp-Sư ; ở Nhật-Bản có toàn thân của Tổ Nhật Liên Bồ Tát (Nichiren) và toàn thân của Tổ Truyển Giáo Đại Sư (Dengo Dainhi). 

Ở Việt-Nam có Tổ Từ-Đạo-Hạnh, Tổ Không-Lộ Thiền-Sư (Nguyễn-Minh-Không), Tổ Giác-Hải Sư, Tổ Đơn-Điền Thiền-Sư và hiện hai pho toàn thân xá-lợi đặc biệt giá-trị hy-hữu nhất của nước Việt-Nam còn tồn tại thờ tại Chùa, đó là Thiền sư Đạo Chân Vũ Khắc Minh và Thiền sư Đạo Tâm Vũ Khắc Trường.Thật là một biểu tượng cho hàng Thánh tăng Việt-Nam có những bậc vĩ nhân siêu thoát đã tiếp thu chứng đạt một cách thấu triệt viên mãn giáo-lý Phật-đà. 

Một dân-tộc tự-hào có nền văn-minh sớm và cao cả vì dân tộc ấy còn tồn tại những chứng tích báu vật tư-liệu văn-hóa cổ hiện được bảo tồn. Tuy nhiên, sự khẳng định về giá-trị chứng-tích tư-liệu cổ-đại tùy theo những quan điểm của mỗi quốc gia, của mỗi thời đại, nhưng những chứng-tích ấy thể-hiện bằng trí-tuệ siêu việt, đưa con người vượt không gian, thời gian lên tột đỉnh thượng-tầng triết-học của loài người thì dù Đông học hay Tây học vẫn được tôn thờ và đỉnh cao của sự thành-tựu ngự tại nhân-sinh. 

Toát thân trên thế-giới có rất nhiều, ở Việt-Nam có Vua Trần-Nhân-Tông bỏ ngai vàng đi tu núi Yên-Tử, sau Ngài để lại toát thân là những viên ngọc, Hòa-Thượng Thích-Quảng-Đức thiêu thân, phát nguyện để nguyên trái tim kho?g cháy, hiện nay vẫn còn lưu giữ. 

Theo lời di-chúc của Thiền-Sư : "Ta vào nhập thất 100 ngày tụng kinh niệm Phật, sau đó xác thân sẽ được giữ nguyên". Hết 100 ngày các thiện-tín Phật-tử mở cửa am, thấy Thiền-Sư vẫn ngồi theo thế nhập Thiền và có mùi thơm, qua vài chục năm áo vải bị ẩm, rơi rụng, khi đó Thiền-Sư chỉ còn da bọc xương các thiện-tín đã mặc cho Thiền-Sư một lớp áo bằng sơn ta, cho đến nay áo đó vẫn còn nguyên nên Thiền-Sư cũng khen là bền và đẹp. 

Ta có thể hiểu : Thiền-Sư nhập thất là Thiền-quán, tụng kinh niệm Phật là Tịnh Độ, như vậy Thiền-Sư đã hiển mật song tu, tín đồ hiểu điều căn bản là phải có tự lực, song điều thiêng liêng là phải được thừa hưởng tha lực của chư Phật chư Bồ Tát. Những thiện-tín nào muốn hiểu rõ về toàn thân xá lợi xin hãy lui tới chiêm bái hai Thiền-Sư, sở nguyện của các Ngài rất muốn lân mẫn với những người sau. Danh hiệu của hai Thiền Sư là Đạo Chân và Đạo Tâm, nếu ghép hai chữ vào ta hiểu là Chân Tâm. Khối óc và tấm lòng của các Thiền Sư như muốn nói với chúng ta những điều khẩn thiết đức hạnh của các bậc Bồ Tát như ánh trăng soi chung, nước ở đâu là ánh trăng in hình ở đó. Những ai phát tâm thời tự thấu hiểu điều nầy. 

Khoa học thế giới ngày nay đã khẳng định : Muốn ướp xác phải thoả mãn đồng thời 3 điều kiện :

1. Phải có thuốc 
2. Phải hút ruột, hút óc 
3. Phải để thể xác trong hòm kín, không có không khí. 

Năm 1983 khoa học đã chứng minh bằng X quang (Thiền-Sư tự Đạo -Chân Vũ Khắc Minh) và kết luận rằng: 

* Không có vết đục đẽo 
* Không có hiện tượng hút ruột, hút óc và các khớp xương dính chặn với nhau như thể tự nhiên 
* Cân nặng 7 kg. 

vukhacminh


Nhục thân của Thiền-Sư tự Đạo-Chân Vũ Khắc Minh

Hai Thiền-Sư đã không cần 3 điều kiện nói trên mà vẫn để lại toàn thân xá lợi, các nhà khoa học trong và ngoài nước rất mong muốn tìm ra "Phương-pháp ướp xác tinh-xảo" của các Thiền-Sư. Đề tài nghiên cứu này đối với các nhà khoa học cho đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn. 

vukhactruong


Nhục thân của Thiền-Sư tự Đạo-Tâm Vũ Khắc Trường

Về kiến trúc, Chùa được xây dựng theo một quy mô lớn, khu chính diện được kiến thiết theo kiểu nội công, ngoại quốc, khu nội công rất nguy nga lộng lẫy, cột trạm rồng nổi hoa văn bay bướm? Nhưng rất tiếc đến nay khu này đã bị cháy hỏng, khu ngoại quốc vẫn còn song đã xuống cấp rất nghiêm trọng. 

Chùa Đậu là niềm tự hào của dân tộc Việt-Nam, là một trong những di-sản quý và lâu đời của nước ta và thế giới. Chùa là nơi danh lam thắng cảnh được thiên nhiên ưu đãi có kiến trúc cổ kính là nơi siêu thoát và thờ hai Đức Phật sống - quốc bảo thiêng liêng của Đất nước. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận di tích "Lịch-sử - Văn-hóa". 

Trước đây chùa đã được nhiều niên đại, nhiều bậc hiền nhân mang tâm công đức trùng tu lại. Ngày nay Bộ Văn hóa và nhà Chùa cùng nhân dân địa-phương đang lập dự án với một quy mô lớn : Tôn tạo lại di tích lịch-sử văn-hóa của dân tộc . 

Mong sự phát tâm công đức của Phật tử thập phương, du khách khắp trong và ngoài nước để một ngày không xa Chùa Đậu sẽ được khang trang như cũ. 

Computer typesetting: Sa di Nguyên Chí

___________________ 

Chân thành cảm ơn đạo hữu Thiện Vân Nguyễn Tấn Hải đã gởi tặng cho Quang Duc Homepage tài liệu này (30/5/2000)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2015(Xem: 9871)
Thời gian chỉ là một khái niệm vô hình vô ảnh của nhân loại ; nhưng nó có thể được biểu hiện bởi sự chia chẻ tính đếm qua giây, phút, khắc, giờ, ngày, tuần, tháng, quý, năm, thế kỷ, thiên kỷ. . . và qua sự biến đổi, di dịch, của vật thể và sinh loại trong không gian. Như vậy, tuy vô hình, thời gian cũng để lại vết tích của nó qua các dữ kiện, sự kiện được ghi lại trong sử liệu của số đông, hoặc chỉ là những dấu ấn kỷ niệm trong tâm thức mỗi cá nhân—trong đó, bao gồm tất cả những thành tựu vinh quang hay thất bại đầy tủi nhục của những con người và tập thể trần gian mà họ tùy thuộc, tương thuộc
29/09/2015(Xem: 6604)
Những chế độ độc tài chuyên nghiệp như đảng CSVN không hề sơ hãi những cá nhân chống đối. Cái mà họ sợ là những cá nhân kết hợp thành tổ chức (hoặc hội đoàn) để chống đối. Khi người cộng sản khống chế xã hội dân sự qua điều 4 hiến pháp, thì họ không những cấm đoán sự hình thành của những tổ chức độc lập, mà họ còn thành lập những tổ chức cuội, của chính họ, để phô trương một xã hội dân sự giả tạo, và xâm nhập mọi cơ sở kinh tế hay xã hội khác, để kiểm soát và điều hướng.
24/07/2015(Xem: 8061)
Bài tiểu luận "Ảnh hưởng Phật giáo trong pháp luật triều Lý" đã được viết vào tháng giêng năm 1971 tại Saigon. Tạp chí Từ Quang đã đăng từ số 225 đến 258 (từ tháng 6 đến 9 năm 1974). Tạp chí Từ Quang là Cơ quan truyền bá đạo Phật của Hội Phật Học Nam Việt, trụ sở ở chùa Xá Lợi tại Saigon (bên hông trường Gia Long cũ), do cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, cố Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hoá thời Đệ Nhị Cộng Hoà miền Nam, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Sau khi cụ Mai Thọ Truyền qua đời thì cụ Minh Lạc Vũ Văn Phường làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Tôi xin trân trọng cống hiến quý độc giả Đặc San Chánh Giác của Chùa Hoa Nghiêm ở Toronto. Toronto, ngày 01 tháng 04 năm 1991 NVT
06/07/2015(Xem: 11650)
(Bài này được trích dịch từ tài liệu có tên “Những Giới Hạn Trong Các Vùng Biển” (Limits In The Seas) mang số 143 với tựa đề “Trung Quốc: Tuyên Bố Chủ Quyền Biển Trong Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)” (China: Maritime Claims In The South China Sea) được Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Vùng Cực (Office of Ocean and Polar Affairs), Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Môi Trường và Khoa Học Quốc Tế (Bureau of Ocean and International Environmental and Scientific Affairs) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (US Department of State) công bố ngày 5 tháng 12 năm 2014 – (Nguồn: http://www.state.gov/documents/organization/234936.pdf ). Mục đích của nghiên cứu này là để xem xét tuyên bố về biển và/hay các biên giới của Bộ Ngoại Giao và đánh giá sự phù hợp với luật quốc tế. Nghiên cứu này đại diện quan điểm của Chính Phủ Hoa Kỳ chỉ đối với những vấn đề đặc biệt được thảo luận trong đó và không nhất thiết phản ảnh sự chấp thuận những giới hạn được tuyên bố. Các phân tích gia chính cho nghiên cứu này là Kevin Baumert
27/04/2015(Xem: 8790)
Tờ Thời Luận San Francisco (San Francisco Chronicle) một nhật báo lớn của Mỹ, ngày 17 tháng 9 năm 2008 có đăng một bài mang tựa: "Đạo Ki-tô đang phát triển nhanh chóng ở Mông Cổ, các nhà truyền giáo đã cải đạo cho hàng nghìn người trong khi những người Phật Giáo đang nơm nớp lo sợ là truyền thống văn hóa của mình sẽ bị mất đi" (Christianity growing fast in Mongolia, Missionaries convert thousands while Buddhists fear losing traditional culture), tác giả là Michael Khon một ký giả trong nhóm bình luận gia thời sự quốc tế trong ban biên tập của tờ báo này. Bài báo khá xưa, cách nay đã hơn sáu năm, thế nhưng cũng không hẳn là lỗi thời, bởi vì tình trạng trên đây chẳng những vẫn còn đang tiếp diễn ở Mông Cổ mà cả nhiều nơi khác trên thế giới. Bài báo cũng đã được một trang mạng Phật Giáo có tầm cỡ quốc tế với 9 thứ tiếng khác nhau là Buddachannel dịch sang tiếng Pháp và đăng tải ngày 6 tháng 2 năm 2009, với tựa ngắn hơn: "Phật Giáo Mông Cổ đang bị mất đà" (Le Bouddhisme Mongol en perte de
06/04/2015(Xem: 6430)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”[1] cho thấy tại Giao Châu lúc bấy giờ, đã là một lãnh địa hùng cứ ở phương Nam không thua kém gì nước Tàu tại phương Bắc. Sử gia Lê Mạnh Thát nhận định về điều này như sau trong bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam:
10/01/2015(Xem: 4743)
Trung tâm Văn hóa Phật giáo ở Huế, còn gọi là Trung tâm Liễu Quán, nằm bên hữu ngạn sông Hương, được thành lập từ mấy chục năm nay. Sau năm 1975, Nhà nước quản lý mãi cho đến gần hai mươi năm sau mới giao quyền lại cho Tỉnh hội Phật giáo Huế, bấy giờ chỉ là một ngôi nhà… không thể coi là một trụ sở văn hóa Phật giáo được. ta t
07/11/2014(Xem: 27602)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
17/08/2014(Xem: 20370)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
04/05/2014(Xem: 7697)
Bác sĩ người Đức Erich Wulff (1926-2010) dạy tại trường Ðại học Y khoa Huế 1961-1967, trong khuôn khổ viện trợ giáo dục của Tây Ðức. Vì một sự tình cờ, tác giả đã chứng kiến biến cố tại Ðài Phát thanh Huế đêm 8/5/1963 làm 8 Phật tử bị chết một cách thê thảm và đã trình bày sự kiện này trước Ủy ban điều tra đàn áp Phật giáo Việt Nam của Liên hiệp quốc vào tháng 9/1963.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567