Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nét Đặc Thù của Nghi Lễ Phật Giáo VN

10/04/201314:05(Xem: 4139)
Nét Đặc Thù của Nghi Lễ Phật Giáo VN


NÉT ĐẶC THÙ

CỦA NGHI LỄ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Lê Việt Nhân

Nói chung là dòng nghi lễ của Phật giáo Việt Nam phát triển từ Bắc đến Trung và vào Nam. Nhưng ở miền Trung có được nét đặc biệt là trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, miền Trung được các Tổ sư ở Trung Hoa sang và họ đã cải cách những nghi lễ ở miền Bắc vốn đang được sử dụng ở miền Trung khiến cho nghi lễ miền Trung mang nét cung đình: còn nghi lễ từ Phú Yên trở vào thì đi vào tính dân gian hơn.

Nhưng phải nhìn nhận là nghi lễ của Phật giáo miền Nam phong phú hơn vì được thừa hưởng tất cả những dòng nghi lễ trên và nhờ vào những giọng điệu, âm điệu vốn có của người miền Nam nên đã tạo thành những phong cách riêng rất đa dạng và đặc sắc. Chẳng hạn, mỗi một bài "tán" ở miền Nam đã mang một điệu khác, không còn mang những nét nguyên thủy của Bình Định nữa mà đã theo tiếng nhạc riêng của miền Nam.

* Vậy những điệu tán trong nghi lễ bắt nguồn từ đâu?

- Từ chư Thiên! Sách chép rằng ở Trung Quốc vào đời Tam quốc có ông Tào Thực (con của Tào Tháo) vì chán nản thời cuộc, ông đi vào núi tu tiên... Giây phút sắp đạt đạo, ông nghe có chư Thiên đến, trỗi lên khúc nhạc trời, ca ngợi đạo hạnh của ông. Sau khi xuất đạo, ông chợt nhận ra rằng đạo Phật rất cao siêu đem chép lại tất cả các điệu nhạc ấy mà truyền tụng trong Phật giáo. Những điệu ấy gọi là các điệu "tán". Trải qua các đời, các điệu tán ấy hòa nhập vào mỗi quốc gia và tùy theo tính đặc thù của Phật giáo Đại thừa tại mỗi quốc gia ấy mà các điệu "tán" có những nét đặc trưng khác nhau.

* Có quan niệm Phật giáo xuất hiện cùng với nghi lễ. Điều này đúng hay sai?

- Không hoàn toàn đúng. Đối với Phật giáo, nghi lễ chỉ xuất hiện từ khi đức Phật nhập diệt. Khi đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thể hiện lòng kính trọng đối với Đạo Sư của mình bằng những cung cách khác nhau. Dần dà những cung cách ấy được gắn vào những tư tưởng triết lý của Phật và phổ vào những điệu nhạc trở thành nghi lễ.

* Các loại nghi lễ được dùng hiện nay có hình thức ra sao?

- Hiện nay, không chỉ riêng gì miền Nam mà cả miền Bắc và miền Trung đều dùng các nghi lễ có nguồn gốc do Tổ sư để lại. Các loại nghi lễ hiện được dùng theo hai khoa chính, đó là Thiền môn chánh độ và Tâm nam thiện bản. Thiền môn chánh độ gồm có hai phần chính, đó là độ các sư tăng viên tịch và độ các người tại gia khi qua đời. Còn Tâm nam thiện bản thì có tính chất như một công văn, đó là những văn sớ. Còn về hình thức thì tùy theo nội dung mà có những cách thể hiện khác nhau. Như ở chùa thì lúc nào cũng có nghi lễ. Sáng thì có hành tri (giờ công phu). Có những bài kinh, tán tụng đều dùng đến nghi lễ, nhưng các sư đọc theo giọng lạc (thiền).

Còn buổi chiều thì có khóa Tịnh độ (công phu chiều), đọc hồi hướng theo giọng ai.

Còn trong các pháp hội như lễ Vu Lan, Phật Đản... thì nội dung của pháp ngữ cũng khác nhau. Và trong độ linh thì các khoa giáo cũng khác và giọng điệu cũng khác.

* Xin điểm qua những dụng cụ trong hành trì nghi lễ.

- Thường dùng thì có linh cổ (trống đạo), đẩu, chuông, mõ, linh Đại cổ (trống bát nhã). Ngoài ra ở các pháp hội lớn thì có các loại nhạc khí thêm vào như đàn cò, sáo kèn, đàn nguyệt (kiềm)...

Các loại dụng cụ cũng chỉ là phụ, quan trọng nhất vẫn là người hành trì nghi lễ.

* Dụng cụ mà người miền Nam gọi là cái "đẩu" thì miền Trung gọi là cái "tang" và miền Bắc gọi là cái "tiêu" và "cảnh". Vậy chúng giống và khác nhau như thế nào?

- Sự thật thì ba tên gọi đó đều chung cho một thứ dụng cụ cả. Nhưng ở miền Nam gọi là cái "đẩu" là do đọc trại từ chữ "điều" mà thành. Người ta gọi là cái "biểu" vì khi đánh vào dụng cụ kêu giống như tiếng chim, ví như con chim hót ra chân lý để người nghe phát tâm niệm Phật, Pháp, Tăng... nên gọi là cái "đẩu". Còn người miền Trung gọi là cái "tang" là vì khi đánh, họ đánh rất nhẹ nghe cái "tang" nên tiếng "tang" là từ đó. Còn ở miền Bắc khi đánh vào nghe to hơn nên gọi là tiếng "tiêu"- miền Bắc cũng còn gọi là cái "cảnh".

* Có đòi hỏi đặc biệt nào đối với người hành trì nghi lễ không, thưa ĐĐ?

- Trong hành lễ có những khác biệt, đó là có người thích tĩnh, có người thích động. Do đó, tùy theo căn cơ mà người hành trì làm tăng vẻ trang trọng cho pháp hội hoặc ngược lại.

Cái chủ yếu của nghi lễ là tác động đến tâm thức của người nghe, do đó muốn cho nghi lễ làm hay, người hành trì nghi lễ phải có đời sống nội tâm (tâm linh) cao. Người có đời sống tâm linh cao chừng nào thì hành trì nghi lễ hay chừng nấy. Và chỉ hay khi người hành trì hòa mình vào các thứ nhạc khí và cất lên giọng điệu của mình để đánh vào tâm thức của người nghe. Những điệu "tán", "tụng" chỉ có tác dụng thu hút mọi người khi người hành trì nghi lễ dồn hết tâm trí của mình vào việc hành lễ. Còn ngược lại, người chỉ biết tán tụng không có đời sống nội tâm cao thì hành lễ sẽ chẳng thu hút được mọi người, chỉ khiến cho họ điếc tai mà thôi. Cũng giống như trong hát dân ca vậy, người nghệ sĩ chỉ nhập vai mới thu hút được người xem.

Trong đạo Phật, có người không hiểu vai trò đó, nên chỉ chú trọng luyện giọng cho tốt, không chú trọng định lực, chánh niệm nên cuối cùng không có một tác dụng nào về mặt hoằng pháp cả.

Do đó, muốn hành trì nghi lễ hay cần phải có 3 yếu tố. Thứ nhất phải có nghệ thuật: điêu luyện đúng mức về giọng điệu. Thứ hai phải có khoa học, đó là sự thật, là chân lý, những giọng điệu câu văn phải khế hợp với chân lý của đạo Phật, nếu không khế hợp thì chắc chắn sẽ bị đào thải. Thứ ba là phải quần chúng, giọng điệu phải mang nét văn hóa Việt Nam; thiếu một trong 3 yếu tố trên, người hành trì nghi lễ không thể đem nghi lễ phổ cập được.

* ĐĐ nghĩ gì về quan niệm "nghi lễ phát triển, Phật giáo suy đồi"?

- Câu nói này sẽ hoàn toàn đúng, nếu như người hành trì nghi lễ không chịu học giáo lý, không chú tâm vào đời sống tâm linh, sử dụng nghi lễ như một phương tiện kiếm sống. Với những hạng người này, mọi hoạt động của họ đều làm cho Phật giáo suy đồi.

Ngược lại, các nước như Trung Hoa, Đài Loan, Nhật Bản... nghi lễ rất phát triển mà Phật giáo ở các nước đó đâu có dấu hiệu nào là suy sụp! Do đó, không phải ở nghi lễ làm cho Phật giáo suy đồi mà chính là do ở những người hành trì nghi lễ. Còn nếu nghi lễ sai thì các Tổ sư đâu có sáng chế ra nghi lễ để làm gì, và Phật giáo Việt Nam cũng chẳng cần có một giai đoạn nghi lễ phát triển mà Phật giáo vẫn hưng thịnh vào giữa thế kỷ 19 đó sao?

* Thưa ĐĐ, hiện nay nghi lễ đóng vai trò như thế nào trong đời sống tu học của Tăng Ni ?

- Có thể khẳng định rằng nghi lễ hiện nay đang bị bỏ quên, không có một phương hướng đào tạo cụ thể. Nếu có thì chỉ truyền dạ theo lối Tổ truyền và chỉ đi sâu vào những điệu "tán", "tụng" chứ không chú trọng về tâm thức khi hành lễ.

Ở các nước, môn học đầu tiên của các Tăng Ni khi vào chùa là phải học nghi lễ. Họ quan niệm rằng "Tôn giáo mà không có nghi lễ sẽ trở thành học thuyết". Thế nhưng, với Phật giáo Việt Nam ta, hiện nay vai trò của nghi lễ vẫn chưa được nhận thức đúng. Ngày xưa, các vị Tổ sư đã dạy rằng: "Học kinh ba tháng, học tán ba năm". Thế mà hiện nay, đáng buồn thay!

* Vậy để khôi phục và phát triển nghi lễ cần phải làm gì?

- Cần phải có một cái nhìn đúng về nghi lễ! Không chỉ Tăng Ni mà tất cả mọi người phải nhìn nhận rằng: nghi lễ của thiền gia để hành trì chứ nghi lễ không phải để làm đám... Cần loại trừ những tệ hại phát sinh từ nghi lễ để mọi người cùng nhìn thấy rằng đây cũng là một pháp môn như bao pháp môn cần tu tập khác.

Nghi lễ cần được đem phổ biến truyền tụng cho tất cả Tăng Ni để mọi người ai cũng phải biết hành trì nghi lễ, tuy rằng không chuyên nhưng phải biết để thấy giá trị thật sự của nghi lễ, Phật giáo còn thì nghi lễ còn!


---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 3536)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
07/07/2011(Xem: 28357)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 8450)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 3549)
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ? Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu, tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.
23/06/2011(Xem: 4284)
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo. Từ phương Bắc, Trung Quốc đã tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lãnh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống còn và giữ gìn sự độc lập của mình, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo ...
20/06/2011(Xem: 7307)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 4896)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
16/06/2011(Xem: 14186)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
15/06/2011(Xem: 5895)
Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
15/06/2011(Xem: 2560)
1. Tín-ngưỡng ở Giao-châu Trước khi các tông-giáo tràn vào, người Việt chắc đã tôn-sùng những mãnh-lực thiên-nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di-tích còn lại không những ở trong tập-tục của dân-gian, mà trong điển-lệ tế-tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc-tích từ đâu tới. Thần Cao-sơnchắc cũng là đức-thánh Tản-viên, thần Long-thủy có lẽ gốc ở thác Bờ. Lại như các đền hay "chùa" Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điệnhẳn là di-tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567