Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trung Hoa và du học Tăng Ni sinh Việt Nam

10/04/201313:56(Xem: 4019)
Trung Hoa và du học Tăng Ni sinh Việt Nam


TRUNG HOA

VÀ DU HỌC TĂNG NI SINH VIỆT NAM

Như Nguyệt

Một ngày trọng Thu nhóm du học ni VN chúng tôi tại Trung Quốc đến đảnh lễ và thăm chùa Long Tuyền ở thành phố Trường Lạc tỉnh Phúc Kiến. Phúc kiến là một tỉnh của Trung Quốc sớm mở cửa về hàng hải cũng là nơi Phật giáo phát triển nhất của Trung Quốc, toàn tỉnh gồm có 4.100 ngôi chùa, trong đó có 14 ngôi được xem là những ngôi chùa lớn của Phật giáo Trung Quốc nói chung, Phật giáo Phúc Kiến nói riêng, Tăng Ni cả tỉnh có khoảng 1.200 vị. Về mặt lịch sử Phúc Kiến là một nơi xuất hiện nhiều bậc cao Tăng như tổ Bách Trượng, Tuyết Phong; trong thời cận đại có ngài Hoằng Nhất, Thái Hư, Viên Anh… từng ở tại đây hoằng dương Phật pháp.

Chùa Long Tuyền toạ lạc tại huyện Trường Lạc , núi Sa hương liên hoa của tỉnh Phúc Kiến, được bao quanh bởi năm ngọn đồi: Tiên quán, Qúy phẩm, Liên hoa, Ngoạ Ngưu và Vân Thang, vị khai sơn chùa này là Hoà Thượng Huệ Chiếu, chùa được xây dựng vào đời Ðường,Túc Lương Thừa Thánh năm thứ 03 (554 tl), khoảng giữa thời đại nhà Ðường chùa này được tổ Bách Trượng đại trùng tu, đầu tiên chùa được đặt tên là Tây Sơn, đến niên hiệu Hàm Thông vua Ý Tông linh cảm trong giếng nước của chùa có rồng xuất hiện nên đổi tên chùa là Long Tuyền, tên Long Tuyền vẫn dùng đén hôm nay, hiện là một phật học viện Tăng của tỉnh Phúc Kiến. Khi đặt chân đến đây, được đảnh lễ tôn tượng Ngài, giờ phút ấy chúng tôi tưởng chừng như mình đang được sống trong chốn tòng lâm với Bách Trượng Thanh Quy; sau đó đến thăm Bách Trượng kỷ niệm đường, những tác phẩm và hình ảnh đăng toà thuyết giảng của Ngài vẫn còn lưu lại nguyên vẹn, chiêm ngưỡng tôn dung của Ngài mà trong tâm tôi cứ ngỡ là Ngài đang hiện hữu trong chốn tòng lâm uy nghi trang nghiêm này và đang giảng dạy đồ chúng, cuộc đời và sự nghiệp của Ngài ảnh hưởng sâu đậm trong dòng Thiền Trung Hoa cũng như Tăng Ni và Phật tử bản xứ trong thế hệ hôm nay. Tinh thần chính yếu trong đời sống tu tập của Thanh Qui là “ Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”; trong buổi hầu chuyện với vị Thượng toạ Tri sự nơi đây chúng tôi cũng giới thiệu về “Bách Trượng Thanh Quy” được áp dụng và phù hợp với hoàn cảnh của Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là ở các thiền viện dưới sự lãnh đạo tinh thần của Hoà Thượng Thích Thanh Từ.

34duho1

Chùa Long Tuyền, TrườngLạc-Phúc kiến

Kế đến là tuần lễ Quốc Khánh (01-10 dl), nhân kỳ nghỉ này chúng tôi đến đảnh lễ và thăm viếng Phật học viện và các chùa ở núi Phổ Ðà( tỉnh Triết Giang). Núi Phổ Ðà là một trong những thắng tích lớn của Tứ đại danh sơn Trung Quốc, một trong hàng nghìn quần đảo lớn nhỏ tại đây, trên núi Phổ Ðà hằng ngày có hàng chục ngàn du khách đến tham quan và Tam bộ nhất bái, 80là du khách từ các tỉnh xa xôi khác của Trung Quốc, còn lại là du khách ngoại quốc. Ðiều này cho thấy sự tín ngưỡng của người dân Trung Quốc không mất đi sau một thời gian dài Phật giáo Trung Quốc không được tự do sinh hoạt tín ngưỡng, chùa chiền vẫn được duy trì và bảo quản rất tốt. Ðặt chân đến đây chúng tôi mới cảm nhận chùa Trung Quốc thật đúng nghĩa là chốn Tòng Lâm mà kinh điển Hán tạng thường đề cập, tại Phổ Ðà Sơn có 3 ngôi chùa lớn là Phổ Tế, Pháp Vũ, Huệ Tế và 88 ngôi chùa am lớn nhỏ, đúng là “ Thập bộ nhất am, bách bộ nhất tự”, nghĩa là đi mười bước là có một cái am và đi trăm bước thì thấy một ngôi chùa.

Chùa Phổ Tế là một ngôi chùa lớn nhất ở núi Phổ Ðà, có diện tích xây dựng là 11.000m2, có khoảng 200 điện các, chùa được xây dựng vào đời nhà Nguyên, Ung Chánh năm thứ 09 thời đại nhà Thanh , chùa được đại trùng tu, nét đặc biệt của chùa này là cửa chính của cổng tam quan 60 năm mới mở một lần, có nhiều đời trụ trì chưa từng bước qua ngưỡng cửa này, đó là sắc lệnh của vua ban trước kia nay vẫn tuân thủ như vậy. Chùa Pháp Vũ là chùa lớn thứ hai, xây dựng năm nào cũng không rõ, nhưng đến Ung Chánh năm thứ 09 chùa cũng được đại trùng tu, diện tích xây dựng là 9.350m2, bên trong điện Cửu long là một kiến trúc thật là huy hoàng, điện này trước kia là hoàng điện của đời nhà Minh ở Nam kinh, thời chiến loạn lạc, nhà Thanh vua Khang Hy sắc lệnh dời chùa về đây, chùa có 245 điện các và liêu phòng, Hoằng Nhất đại sư từng ở nơi đây nhập thất 09 năm, Phổ Tế và Pháp Vũ mỗi chùa xây dựng ròng rã trong thời gian 10 năm, hai chùa này được triều đình hiến dâng nhiều vàng bạc và ngói lưu ly để làm kinh phí tu bổ, hậu điện được xây dựng bằng nhiều loại gỗ qúy được dân chúng tỉnh Phúc kiến vận chuyển đường biển đến núi Phổ Ðà, vị trụ trìđương nhiệm bấy giờ phải mất ba năm đi tìm các loại gỗ để xây dựng chuà này.Chùa Huệ Tế là chùa lớn thứ 03 nơi đây , chùa được xây dựng vào đời nhà Minh, đến đời nhà Thanh cũng được đaị trùng tu ,diện tích dây dựng là 5.500m2 , hiện có 4 điện, 6 cung và 7 lầu.

34duho2
Cổng ngoại viện chùa Pháp Vũ

Chung quanh những chùa này có những cây cổ thụ một hai ngàn tuổi thọ, toàn núi Phổ Ðà có khoảng 800 tăng 200 ni, có Phật học viện Phổ Ðà Sơn Tăng và phân viện Ni, chương trình tu học tại đây là 4 năm, tương đương với chương trình Cao Trung Phật học của Việt Nam, đặc biệt Phật Học Viện Phổ Ðà Sơn (Tăng) là nơi xuất gia của Hoà Thượng Ấn Thuận, là một vị Cao Tăng của Phật giáo Trung Quốc trong thời hiện đại, nên nơi đây đã xây dựng một thư viện và dùng tên Ngài đặt cho thư viện đó ( gọi là Thư Viện Ấn Thuận). Tòan bộ chùa trên núi Phổ Ðà chỉ có một vị Phương trượng là Thượng toạ Thích Giới Nhẫn ( trú tại chùa Phổ Tế) quản lý tất cả chùa chiền và Tăng Ni nơi đây, đa số chư Tăng Ni của Trung Quốc đều là ấu niên xuất gia, hầu hết trong đại hùng bảo điện các chùa tại đây đều tôn thờ tượng Bồ tát Quán Thế Âm, tại núi này có nhiều huyền thoại về Ngài, nên hình ảnh Bồ Tát rất gần gủi với tín ngưỡng dân gian, nơi đâu có khổ đau thì nơi đó có sự hiện diện của Ngài, nếu những ai nhất tâm niệm danh hiệu của Ngài thì Ngài sẽ dùng đại từ bi tâm mang lại sự an lành cho người dân, thế nên người đời tôn xưng Ngài là mẹ hiền Quán Thế Âm. 

Ðược đặt chân đến đây chúng tôi mới thấy được nét thiên nhiên hùng vĩ của đất nước Trung Hoa và sự tôn nghiêm cổ kính của chùa chiền Trung Quốc. Vì thế, ngoài Ấn Ðộ ra hơn nơi nào hết trong lịch sử, Phật giáo Trung Quốc đã xuất hiện nhiều bậc Tổ sư chứng và ngộ đạo, nhiều thế hệ đi qua chư Tăng trong thời hiện đại cũng nối tiếp lịch sử chư Tổ nên Phật giáo Trung Quốc đã xuất hiện nhiều bậc danh Tăng. Phật giáo Việt Nam ảnh hưởng nhiều văn hoá và Phật giáo Trung Quốc, vì thế đa số Tăng Ni Việt Nam sau khi tốt nghiệp Phật học hoặc đại học bên ngoài đã tự chọn cho mình một hướng đi, nếu sở trường là Anh ngữ thì chọn Ấn Ðộ làm nơi nghiên cứu Phật học, còn Hán tạng thì đến Trung Quốc hay Ðài Loan. Hiện tại Tăng Ni sinh Việt Nam học ở Trung Quốc theo học các trình độ khác nhau: Tiến tu, Ðại học, Thạc sĩ hay Tiến sĩ tại các trường đại học ở các tỉnh Trung Quốc như: Bắc Kinh, Quế Lâm, Vũ Hán, Hà Nam, Vân Nam, Quảng Châu, Phúc Kiến; riêng trường đại học Sư phạm Phúc Kiến có 06 vị Tăng và 16 vị Ni đang theo học các ngành: Văn học, Cổ ngữ Trung Quốc và một số ít thì đang học Tiến tu tiếng Hoa.

34duho4

Chùa Tây Thi ền, Phúc Châu- Phúc Ki ến

Trong thời gian tu học tại Trung Quốc đa số tăng Ni sinh Việt Nam được sự hổ trợ có hạn về tài chính của chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử hải ngoại, bên cạnh đó có một số ít thì được sự tài trợ của thầy tổ và gia đình ở Việt Nam.Tuy gặp khó khăn về tài chính, nhưng với tinh thần tha phương cầu học, ngỏ hầu báo Phật ân đức, tiếp dẫn hậu lai, nên Tăng Ni sinh Việt Nam đã khắc phục mọi khó khăn trong thời gian học ở nước ngoài, vẫn duy trì được nếp sống Tăng sĩ Việt Nam trong tinh thần hoà hợp giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, những vị đi trước luôn hoan hỉ giúp đỡ người đến sau với khả năng của mình, chư Tăng Ni sinh Việt Nam tại đây đã và đang hoàn thành nhiều học vị khác nhau, có vị sau khi tốt nghiệp trở về VN phụng sự chánh pháp, có vị thì tiếp tục nâng cao trình độ.

Ðể thực hiện công việc nghiên cứu dịch thuật và giảng dạy Hán tạng, ngoài Tăng Ni đến từ Việt Nam ra, còn có một số chư Tăng Ni đến từ Mỹ-Úc và Châu Âu, cũng theo học các chương trình như trên.

Ðiều này cho thấy rằng Phật giáo Việt Nam trong một tương lai gần sẽ có một số đông Tăng Ni sinh sau khi tốt nghiệp sẽ kế tục sự nghiệp “Tác Như lai sứ, hành Như lai sự”, mỗi người với một năng lực khác nhau để góp phần xây dựng ngôi nhà Phật giáo Việt Nam ngày được phát triển hơn. 

Như Nguyệt ( PV)


---o0o---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/03/2021(Xem: 10719)
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
18/01/2021(Xem: 7518)
Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó nhất định có sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi hoàn cảnh địa lý, với những điều kiện thực tế để tự cường, sinh tồn và phát triển. Dân tộc Việt Nam là một chủng tộc có ngôn ngữ riêng biệt thuần nhất, có nền văn hóa nhân bản đặc thù, siêu việt và nền văn hóa này có khả năng chuyển hóa, dung hợp tinh ba của tất cả nền văn hóa nhân loại biến thành chất liệu sống và ý nghĩa sự sống bồi dưỡng cho sanh mệnh dân tộc mang tánh chất Rồng Tiên nẩy nở phát triển và trường tồn bất diệt trải dài lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến kể từ khi lập quốc cho đến ngày nay. Đặc tánh Rồng Tiên, theo Hai Ngàn Năm Việt Nam Và Phật Giáo của Lý Khôi Việt, trang 51 giải thích: Rồng tượng trưng cho hùng tráng dũng mãnh tung hoành, Tiên biểu tượng cho thanh thoát cao quý, hòa điệu. Vì có khả năng chuyển hóa và dung hợp của nền văn hóa Việt Tộc (Chủng Tộc Việt Nam), dân tộc Việ
15/09/2020(Xem: 9926)
Chùa tọa lạc ở số 01 đường Sư Liễu Quán, phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Mặt chùa quay hướng Nam. Bên trái chùa, có chùa Linh Quang và đền thờ cụ Phan Bội Châu. Chùa được Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung dựng vào cuối thế kỷ 17 tại ngọn đồi thấp Hoàng Long Sơn, có tên thiền thất Ấn Tôn. Năm Nhâm Thìn (1712), ngài Thiệt Diệu Liễu Quán, quê ở Phú Yên là đệ tử đắc pháp của Sơ tổ Minh Hoằng Tử Dung, được ngài truyền tâm ấn, trở thành đệ nhị Tổ. Ngài Thiệt Diệu Liễu Quán đã phát triển dòng thiền Lâm Tế cho đến ngày nay.
13/09/2020(Xem: 11219)
Thiền viện tọa lạc dưới chân núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở độ cao 1.450m, cách biển Đông 5km đường chim bay, nhiệt độ trung bình 200C, Bạch Mã là nơi có khí hậu mát mẻ, lý tưởng cho việc tu tập của Tăng, Ni, Phật tử và các chuyến tham quan, chiêm bái của du khách. Tên thiền viện lấy theo tên núi Bạch Mã. Chữ “Trúc Lâm” hàm ý đến dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và mang tính nhập thế.
09/04/2020(Xem: 5567)
Thành phố Sa Đéc hiện có trên dưới 48 cơ sở thờ tự (đình, chùa, miếu, nhà thờ họ,…) và trong đó không ít những ngôi chùa, đình có niên đại trên 100 tuổi (chùa Phước Hưng xây dựng vào 1838 tính đến nay 177 năm, chùa Quảng Phước xây dựng vào 1858, tuổi thọ cũng gần 160 năm, đình Tân Quy Tây thờ vị thần hoàng khai khẩn đất đai Võ Ngọc Minh được xây dựng vào năm 1812, hơn 200 tuổi…). Bài viết của chúng tôi tập trung giới thiệu 3 trong số quần thể di tích chùa, đình cổ ở đây với số lượng văn bản Hán Nôm vượt trội, cũng như lịch sử lâu đời: Chùa cổ Phước Hưng, chùa Bà Thiên Hậu của công đồng người Hoa và đình Vĩnh Phước.
05/03/2020(Xem: 6706)
Trong những quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha, Phật Giáo nằm ngay giữa bối cảnh lịch sử Thiên Chúa Giáo. Mối quan hệ giữa hai nền văn hóa tôn giáo – Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo – phủ lên một hình ảnh bao quát: từ chủ nghĩa bài xích nhau đến đối thoại hiệu quả, chuyển qua các cấp độ đa dạng của sự lãnh đạm nhau. Liên quan đến hai truyền thống tâm linh, Ana Maria Schlüter Rodés biểu hiện những gì bà gọi một cách chính xác là “song ngữ tôn giáo.” Trong cuộc phỏng vấn với Daniel Millet Gil từ Buddhistdoor Global được dịch sang Anh ngữ và đăng trên trang mạng www.buddhistdoor.net hôm 27 tháng 2 năm 2020, Ana Maria nói về con đường tâm tinh và thực hành Thiền của bà trong bối cảnh Thiên Chúa Giáo.
20/02/2020(Xem: 4661)
Lịch sử Phật Giáo thường rất mù mờ. Hơn nữa, những chuyện của khoảng 2 ngàn năm trước đã quá xa xưa, rất khó kết luận chắc nịch được.
13/02/2020(Xem: 8975)
Sau khi Đức Phật thành đạo, ánh sáng giác ngộ của Ngài đã chiếu khắp mọi nơi, hàng vạn người dân Ấn, từ sĩ, nông, công, thương, mọi tầng lớp của xã hội Ấn đều thừa hưởng được kết quả giác ngộ của Ngài. Đến cuối đời của Ngài, Chánh pháp đã có mặt ở khắp Ấn Độ và lan tỏa đến các quốc gia láng giềng. Từ hạ lưu của sông Hằng đi về phía Đông, phía Nam tới bờ sông Caodaveri, phía Tây tới bờ biển Á-rập, phía Bắc tới khu vực Thaiysiro, đâu đâu cũng có sự ảnh hưởng của giáo lý Phật-đà, và người dân nơi ấy sống trong sự hòa bình và hạnh phúc. Trong triều đại của Hoàng Đế Asoka thuộc Vương Triều Maurya (thế kỷ thứ III trước TL), Phật giáo đã bắt đầu truyền bá sang các vùng biên giới của đại lục.
22/01/2020(Xem: 14034)
Đạo Phật và Dòng Sử Việt (sách pdf, tác giả HT Thích Đức Nhuận)
08/11/2019(Xem: 9932)
Như có một cái gì sống lại khi ngồi viết bài này về dòng Thiền Trúc Lâm và núi Bạch Mã. Sự kết hợp giữa tâm linh và thiên nhiên đưa ta vào một khoảnh khoắc tuyệt vời huyền bí khi cảm nhận. Một dòng thiền Việt Nam do ông vua tài giỏi sáng lập và đắc đạo, một núi cao 1450 mét có mây trắng quanh năm trên đỉnh, dưới chân dòng nước lững lờ trôi của hồ Truồi trứ danh yên tịnh. Hai cảnh trí tạo ra cho người đến đây tự hỏi: Ngàn năm mưa gió vẫn bay Trăm năm có đứng chỗ này hay chưa?!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567