Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đi tìm chân ngôn giữ nước và dựng nước

10/11/201808:32(Xem: 5187)
Đi tìm chân ngôn giữ nước và dựng nước

vua hung vuong 4

ĐI TÌM CHÂN NGÔN GIỮ NƯỚC VÀ DỰNG NƯỚC
 

Nguyên Cẩn

 

Trong một bài viết đã lâu trên VHPG, chúng tôi có đề cập đến Chân ngôn đất nước. Chúng tôi đã lấy lời của Nguyễn Trãi, sau khi hoàn tất cuộc chiến đấu giành độc lập 600 năm trước, nhân danh vua Lê Thái Tổ mà hùng hồn tuyên cáo:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

 

Chúng tôi cũng đã nhận định: “Nhân nghĩa là tư tưởng truyền thống của dân tộc Việt Nam, hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử. Mục đích của nhân nghĩa đã được khẳng định “cốt để yên dân”, nghĩa là có mục đích bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của toàn dân là được sống trong bình yên, an tâm làm ăn, không phải đau đáu lo lắng về sự xáo trộn, không phải hồi hộp chứng kiến cảnh chết chóc, đau thương. Nhân nghĩa  tinh thần  muôn dân, là chính nghĩa dân tộc. Nhân nghĩa ở đây không chỉ là lòng thương người, mà nhân nghĩa còn là trừ bạo ngược để hộ quốc, cứu dân. Muốn yên dân thì khi có giặc ngoại xâm trước tiên phải đứng lên chống giặc “trước lo trừ bạo”. Còn nếu đất nước hòa bình rồi thì phải giải quyết các thứ “giặc” khác trong nội bộ: tham nhũng, lộng quyền, ức hiếp dân nghèo…”1 .

Nhưng không phải đến Nguyễn Trãi hay triều Lê thì mới lo yên dân; mà ở những triều đại trước, chúng ta cũng chứng kiến hay ghi nhận những thành tựu về lãnh vực này. Cụ thể, Trần Hưng Đạo, người một lòng tận tụy đối với đất nước, luôn muốn đoàn kết mọi tầng lớp trong dân tộc thành một lực lượng thống nhất, từng dặn dò vua Trần Anh Tông rằng: “Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc” cho sự nghiệp lâu dài của nước nhà”2 .

Nhưng điều này các vua nhà Lý cũng đã từng làm. Cụ thể, năm 1010, khánh thành cung Thúy Hoa, vua Lý Thái Tổ đại xá cho thiên hạ trong ba năm, những người mồ côi, góa chồng, già yếu, thiếu thuế lâu năm đều miễn cả. Năm 1070, đời Lý Thánh Tông, đại hạn, phát thóc và tiền, lụa… trong kho để chẩn cấp cho dân nghèo. Năm 1103, thời Lý Nhân Tông, Thái hậu Ỷ Lan phát tiền ở kho nội phủ để chuộc những người con gái nhà nghèo phải bán mình đi ở đợ, đem gả cho người góa vợ. Luật pháp triều Lý đặc biệt chú ý tới người già, trẻ nhỏ, coi trọng công tác giáo dục, ngăn ngừa. Luật pháp triều Lý quy địnhnhững người trong độ tuổi từ 70 đến 80, trẻ nhỏ từ 15 đến 10 tuổi nếu phạm tội thì cho phép dùng tiền để chuộc tội. Trong xét xử các vua Lý thường khoan dung, lấy giáo dục làm chính. Có lần khi đang xét xử, vua Lý Thánh Tông chỉ vào công chúa Động Thiên mà nói “Ta yêu con ta cũng như lòng ta làm cha mẹ dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào hình pháp, trẫm rất thương xót. Từ nay về sau không kể tội gì nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm”3 .

Đối với những người vi phạm vào các quy định của nhà nước, vua Lý thường lấy lòng khoan dung  tha thứ. Luật pháp là công cụ của giai cấp thống trị để bảo vệ trước hết là quyền lợi của họ. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của đạo Phật, luật pháp triều Lý chứa đựng những nhân tố rất tiến bộ trong đó nổi bật  tinh thần nhân ái  khoan dung đối với nhân dân, bảo vệ và chăm lo tới cuộc sống của dân. “Yêu dân như con” là đạo trị nước của triều Lý. Còn nhà Trần thì sao? Năm 1242, Trần Thái Tông miễn thuế thân đánh vào người không có ruộng đất; hạn hán, miễn một nửa tô ruộng. Năm 1288, sau thắng Nguyên lần thứ ba, Trần Nhân Tông đại xá thiên hạ, những nơi bị binh hỏa cướp phá nhiều thì miễn toàn phần tô dịch, các nơi khác thì miễn giảm theo mức độ khác nhau. Dưới đời Trần, ảnh hưởng bao trùm của Phật giáo đã được đại thần Lê Quát dưới triều Nghệ Tông (1370-1372) ghi lại trong bài văn bia chùa Thiện Phúc như sau: “Thuyết họa phúc của nhà Phật tác động tới con người sao mà được người ta tin theosâu sắc và bền vững như thế? Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật thì dẫu hết tiền của cũng không sẻn tiếc”.

Ngẫm lại chúng ta hôm nay, có yên dân được không khi nhiều mặt xã hội chưa được quản lý một cách chặt chẽ, minh bạch để xảy ra những bất công, oan khuất, nhất là trong lĩnh vực đất đai khiến tình trạngkhiếu kiện vẫn còn xảy ra mà Thủ Thiêm là một trong những điểm “nóng” gần đây.

Có yên dân được không khi an sinh chưa được cải cách hữu hiệu: tình trạng bệnh viện quá tải, đường phố ngập nước kẹt xe diễn ra trầm trọng đều khắp, nhất là ở những thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tình trạng xuống cấp cầu đường trầm trọng kể cả cao tốc dù mới khánh thành, lại đang thu phí BOT… Có nơi học sinh vẫn phải đi cầu treo hay qua sông bằng túi ny-lông đến trường?

Trong lúc hô hào dân chúng tiết kiệm năng lượng và nguyên liệu thì tình trạng lãng phí vẫn diễn ra ở các cơ quan, công sở. Có người đi nước ngoài vài ngày mà bắt ngân sách chi tiền tỷ. Tình trạng đầu tư không hiệu quả như tuyến xe buýt BRT ở Hà Nội hay những nhà máy “ngàn tỷ” nằm đắp chiếu vẫn là nỗi nhức nhối của công luận. Chúng tôi đã từng phân tích nếu muốn “yên dân”, ta còn phải đối xử với thiên nhiên trân trọng và hòa ái, nghĩa là không trấn áp theo kiểu đắp đập, ngăn dòng, xây thủy điện bừa bãi, phá rừng làm đô thị, bịt dòng chảy kênh mương khiến thành phố xóm làng ngập lụt, hủy hoại môi sinh bằng các loại hóa chất và thuốc trừ sâu, tàn sát sinh vật để rồi chính chúng ta đào mồ chôn chính nhân dân của mình một ngày nào đó. Thiên tai có thể ngăn chặn nếu chúng ta chủ động và có ý thứctrách nhiệm cộng đồng. Những hiện tượng bất thường đang diễn ra hiện nay có vai trò của các cấp lãnh đạo và cả từng cá nhân khi không thể bảo vệ sông ngòi, núi non, rừng thiêng không bị tàn phá, ô nhiễm.

Muốn yên dân, hệ thống pháp luật phải vững mạnh và minh bạch. Tình trạng một luật nhưng nhiều “lệ” và ai muốn vận dụng thế nào cũng được tùy vào địa vị xã hội và tình huống cần xử trí vẫn còn. Án oan sai không phải là ít. Chừng nào một nhà nước thượng tôn pháp luật và nhất là đề cao quyền con ngườikhông còn là niềm mơ ước, hay công bình xã hội không còn là chuyện xa xỉ thì ngày ấy chúng ta hiểu rằng đất nước vững vàng trước mọi thử thách, dù là sức ép từ sự cạnh tranh của các nước láng giềng hay những nước lớn, dù là sự hung hăng của siêu cường nào đấy, chúng ta vẫn tin vào sự đồng thuận của toàn dân.

Chúng ta nhớ lại Truyện Kiều:

Tóc tơ căn vặn tấc lòng,

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

 

Chắc chắn bài học thành công trong kháng chiến từ ngàn xưa nhờ vào chữ “đồng” ấy đã được chứng minh trong thực tiễn cho nên chúng ta hôm nay là những con cháu của bao người đi qua chiến tranh đang ngồi lại cùng nhau suy ngẫm một chữ “đồng”. Phải chăng nhiều người hôm nay đã không cần hay quên mất chữ “đồng” ấy vì quyền lực đã khiến người ta tha hóa? Những câu hỏi lớn ấy cần phải được giải mã trong chân ngôn hôm nay của đất nước, rằng “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.

Chúng ta nhớ lời dạy của Đức Phật về chữ “đồng” ấy trong “lục hòa”:

1.Thân hòa đồng trú;

2. Ý hòa đồng duyệt;

3. Giới hòa đồng tu;

4. Kiến hòa đồng giải;

5. Lợi hòa đồng quân;

6. Khẩu hòa vô tránh.

 

Hiện nay trong nhiều vấn đề an sinh xã hội, chúng ta thấy có sự tranh chấp, vì một số người “có quyền” áp đặt tư duy của mình biến thành quyết định khi chưa tham khảo ý kiến đại chúng vì thiếu Kiến hòa đồng giải ; thiếu sự chia sẻ với nhau những điều thấy biết đúng tốt và có lợi, cần phải ôn tồn thảo luậnđể phân tích những cái thấy biết sai khác ấy không đúng và không có lợi ở những điểm nào. Và nhất là hoán toàn thiếu quan điểm Lợi hòa đồng quân: Về tài lợi, vật thực, đồ dùng phải phân chia cho cân nhau hay cùng nhau thọ dụng, không được chiếm làm của riêng, hay giành phần nhiều về mình… không vì tình riêng, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt người xấu, nhưng phải lấy công bằng làm trọng.

Trong xã hội sở dĩ có sự xung đột dữ dội, phân chia giai cấp, vì người giàu, có những kẻ thuộc tầng lớp lãnh đạo, thì giàu quá ở toàn biệt phủ nguy nga, kẻ nghèo thì mái nhà tranh cũng khó kiếm. Nếu họ nhận chân rằng cuộc giàu sang phú quý trong nhân gian như hạt sương đọng trên cành hoa, công danhvinh hiển trên đời như bọt nước nổi trên mặt biển, thì chắc lòng tham sẽ bớt đi và biết sống san sẻ cho người khác, điều mà một số tỷ phú Mỹ đang làm hiện nay khi đóng góp gần hết gia tài mình cho phúc lợinhân loại. Lúc đó, sự chênh lệch giữa giàu và nghèo sẽ bớt đi và con người sẽ bớt xung đột.


Chân ngôn
 giữ nước

Chúng ta khen ngợi người Nhật can đảm trước kẻ thù vì họ có giai cấp võ sĩ (samurai) nhưng quân đội của chúng ta không kém phần thiện chiến. Nhìn lại trong cả hai thời Lý Trần, đất nước luôn đặt trong tình trạng bị đe dọa. Điều gì làm chiến sĩ chúng ta gan dạ, làm người chỉ huy cao cấp như Trần Hưng Đạo đủ hùng tâm tráng khí, tuyên bố Chân ngôn giữ nước rằng “Nếu bệ hạ muốn hàng xin chặt đầu thần trước đã”. Cái gì khiến Trần Bình Trọng tràn đầy tiết tháo trả lời Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”, khiến cậu bé Trần Quốc Toản bóp bẹp trái cam trong tay. Họ tin ở vận mệnh đất nước, tin ở khí tiết toàn dân và toàn quân.

Phải chăng Thiền đem lại sức mạnh vô song ấy như Giáo sư Cao Huy Thuần đã viết về Thiền đời Trần và về Trần Hưng Đạo “… trên hết, ông tin ở tài lãnh đạo. Tài của ông và tài của vua. Bởi vì vua này là vua Thiền. Các tác giả Nhật cho rằng trong Thiền ngấm ngầm một sức mạnh vô song do sự tin tưởngrằng con người  đủ khả năng để tự mình thấy được tánh giác. Nơi người lãnh đạo, sức mạnh đó đem lại bình tĩnh, ung dung, khi chỉ huy giữa gian nguy vẫn bình yên sáng suốt. Hãy đọc lại sử sách xem Trần Nhân Tông ung dung như thế nào giữa trận mạc, có khi bị giặc đuổi trên sông nước, vẫn bình yên lấy gươm khắc thơ lạc quan vào mạn thuyền. Vua như thế, tướng như thế, làm sao quân không như thế? Lấy một chọi mười là chuyện thường nghe trong chiến trận ngày xưa và cả ngày nay”5 .

Hơn ai hết ông vua Thiền của chúng ta đã vững vàng theo triết lý tánh Không trong Bát-nhã “Bồ-tát nương trí tuệ Bát-nhã nên tâm không ngăn ngại, vì tâm không ngăn ngại nên không sợ hãi…”. Có gì mà sợ hãi khi đã thâm nhập triết lý có-không, vượt lên trên cả không lẫn có.

Ngoài Chân ngôn quyết tử ấy, còn phải kể đến chữ “đồng”. Thông thường trong các triều đại xưa, các cuộc chiến tranh thường xảy ra giữa những tập đoàn phong kiến cát cứ, các lãnh chúa, vương hầu. Nếu không, dù có là cuộc chiến tranh qui mô lớn đi nữa, thường thì giai cấp lãnh đạo  chủ xướng, là chỉ huy. Vai trò quần chúng trở nên thứ yếu và họ chỉ có thể làm được một điều là chiến đấu và hy sinhnhiều khi không hiểu vì ai, nhằm mục đích gì. Thế nhưng dưới triều đại nhà Trần, vua đã tổ chức Hội nghị Bình Than (1282), gồm văn võ bá quan, vương hầu, để bàn kế họach kháng chiến. Nhưng trước thế giặc đang lên, tháng Chạp năm Giáp Thân (1-1285), Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông xuống chiếu mở một cuộc hội nghị hết sức quan trọng, đó là hội nghị Diên Hồng. Tham dự hội nghị này là các vị bô lão, đại diện cho nhân dân cả nước. Thượng hoàng đích thân hỏi các vị bô lão là nên đánh hay nên hòa. Một đời thân phận thấp hèn, tay bùn chân lấm, nay bỗng dưng được triều đình mời vào tận hoàng cung để bàn quốc gia đại sự, tinh thần của các vị bô lão phấn chấn khác thường.

Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 44 a) chép: “Các cụ bô lão đều nói đánh, muôn người cùng một tiếng, muôn lời như bật ra từ một miệng”.

Bình luận về sự kiện này, sách Đạo Phật và dòng sử Việt viết: “Tiếng hô quyết đánh của các phụ lão như một làn chớp lan ra khắp trong nước, từ kinh thành đến các phủ huyện, nơi hang cùng ngõ hẻm, tạo thành một khối dân tộc đoàn kết lớn mạnh, không phân biệt đồng bào Kinh hay Thượng, tất cả đều cương quyết đứng lên đánh giặc, bảo toàn lãnh thổ và quyền dân tộc độc lập”5 .

Các vua Trần đã tập hợp toàn dân và quan trọng hơn là hiệu triệu cho một cuộc “chiến tranh nhân dân” trên mọi mặt trận: từ chiến trường đến lòng người.

Nhưng chính sách đoàn kết này chỉ có thể thực hiện được khi người dân và người lãnh đạo đất nước có cùng chung một quyền lợi để bảo vệ và một đối tượng để chiến đấu… Trần Hưng Đạo đã chỉ ra sự thống nhất quyền lợi giữa những người lãnh đạo đất nước và những người dân. Mọi người đều thấy mình có cùng chung một quyền lợi để chia sẻ và do thế phải cùng nhau bảo vệ. Sự tồn tại của quyền lợingười này là điều kiện và tiền đề để cho quyền lợi người khác tồn tại.

Quan hệ biện chứng với quyền lợi này đã xây dựng nên ý thức về sự cùng chung một đất nước, một cộng đồng để mến yêu. “Chính xuất phát từ một nhận thức như thế, trong việc chuẩn bị cho hai cuộc chiến tranh cũng như sau khi hòa bình lập lại, vua Trần Nhân Tông, thông qua chính sách hành chính cũng như qua bản thân cuộc sống của mình, đã thực hiện hàng loạt các biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội  văn hóa nhằm xây dựng khối đoàn kết toàn dân ấy. Ta đã thấy vua có biện pháp phát triển đồng bộ nông nghiệp, thương nghiệp và thủ công nghiệp nhằm tạo cái ăn, cái mặc cho người dân. Vua Trần Nhân Tông giải quyết những vấn đề xã hội về tội phạm, về những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, để tạo nên một cuộc sống quan hệ xã hội thoải mái.”6 .

Như vậy trong sự nghiệp giữ nước, phải giải quyết những bất hòa nội tại để toàn dân một lòng chống ngoại xâm. Tin tưởng vào Chân ngôn ấy, chúng ta sẽ chẳng sợ kẻ thù nào, dù mạnh và cuồng bạo đến thế nào đi nữa!

Sử sách còn chép về nhận định của Nguyễn Trãi được người sau nhắc lại: “Nhân nghĩa gốc ở hòa, mà hòa là gốc của nhạc… Trong một giàn nhạc, mọi nhạc cụ phải hòa âm, phối khí thì bản nhạc cất lên mới êm ái, du dương. Nếu trống đánh xuôi, kèn thổi ngược thì không còn là nhạc nữa. Đời sống xã hội cũng vậy, cần phải hòa đồng, lợi ích cân xứng, trên dưới đồng lòng thì mới yên bình. Xã hội bất hòa là nguy cơ của loạn lạc. Trong thư gửi Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi viết: “Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Dám mong bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăm sóc muôn dân, khiến cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu, đó tức là giữ được cái gốc của nhạc vậy”7 .

Chúng tôi từng viết rằng lãnh đạo như điều khiển một dàn giao hưởng, phải có sự hòa điệu, hòa thanh, đồng tâm, đồng ý. Dù làm công trình gì đi nữa, nếu còn “tiếng oán sầu” thì khó có bản giao hưởng nào nghe êm tai cho được. Mong thay một chữ “đồng”!


Nguyên Cẩn | Văn Hóa Phật Giáo 308 1-11-2018

Trang Nha Quang Duc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/03/2018(Xem: 15120)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
18/03/2018(Xem: 5760)
(Lắng lòng viết về đêm thắp nến 50 năm tưởng niệm và cầu nguyện cho nạn nhân biến cố Mậu Thân-Huế 1968-2018, tổ chức tại TTVHPGPV ngày 10.03.2018) Một thời máu lửa đạn bom Quê hương tang tóc, hồn hoang tru gào Từng trang sử, đẫm lệ trào Ngày im tiếng súng nghẹn ngào gọi nhau! (Một Thời-Tâm Không Vĩnh Hữu)
29/01/2018(Xem: 5262)
Nữ sĩ Huỳnh thị Bảo Hòa với “Bà Nà du ký” Châu Yến Loan
29/01/2018(Xem: 14563)
Nhà Chu (1122-256 Tr TL), triều đại kế tiếp nhà Hạ (2205-1767 Tr TL), nhà Thương (1766-1122 Tr TL), là triều đại cai trị lâu dài nhất so với bất cứ triều đại nào khác trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Chu có gốc từ một bộ tộc ở đất Thai (Thiểm Tây), sau chuyển về đất Bân (Thiểm Tây). Khi Cổ Công Đản Phủ (sau được phong là Chu Thái Vương) dời về đất Bân (tỉnh Thiểm Tây), đất Bân thường bị địch xâm lấn ở không yên mới bỏ đất Bân, vượt núi Lương đến định cư dưới chân núi Kỳ Sơn. Thái Vương có ba người con, trưởng là Thái Bá, thứ là Trọng Ung, con út là Quý Lịch. Nhiều sách nói không biết Thái Bá tên là gì, nhưng theo thứ tự trong gia đình gọi trưởng là thái hay mạnh, thứ là trọng cuối là quý thì ông tên là Bá (Thái Bá), hai em ông người tên là Ung (Trọng Ung), người út tên là Lịch (Quý Lịch).
01/01/2018(Xem: 39831)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
15/11/2017(Xem: 7997)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
23/09/2017(Xem: 22124)
The Vietnam War - Chiến Tranh Việt Nam (Trọn bộ 10 tập), đạo diễn: Ken Burns và Lynn Novick - Buổi ra mắt và thảo luận về phim “The Vietnam War” đêm thứ Ba 12/9 của hai đạo diễn Mỹ nổi tiếng về các phim tài liệu có giá trị lịch sử: Ken Burns và Lynn Novick diễn ra tại Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Kennedy ở thủ đô Washington. Dẫn đầu cuộc thảo luận, ngoài hai nhà đạo diễn và MC là ký giả Martha Raddatz của chương trình tin tức đài ABC, còn có 3 khách mời đặc biệt, Thượng nghị sĩ John McCain, cựu Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, cả 3 đều là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 4906)
Trong những năm qua, nghiên cứu về quá trình ra đời, phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam đã và đang nhận được sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nước với những mức độ đậm nhạt khác nhau. Nét nổi bật trong các công trình nghiên cứu trước đây chính là đã xác định được thời điểm ra đời, cách phân kì lịch sử cùng những đóng góp của báo chí đối với tiến trình phát triển của Phật giáo Việt Nam cũng như đối với văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vẫn còn có khá nhiều nội dung chưa nhận được sự đồng nhất từ phía các nhà nghiên cứu, như niên đại của các tờ báo, số lượng báo chí được xuất bản, nhất là trong giai đoạn khởi thủy của nó. Trên cơ sở các nguồn tư liệu đã sưu tầm được (chủ yếu là các văn bản gốc), chúng tôi xin được tiếp tục đi vào phân tích và trình bày thêm về quá trình ra đời và phát triển của báo chí Phật giáo ở Nam Bộ trong nửa đầu thế kỉ XX. Qua đó, góp phần bổ cứu nguồn tư liệu nhằm làm sáng tỏ hơn tiến trình phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 4086)
Trong những năm trở lại đây, công tác nghiên cứu về phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam đã và đang đạt được nhiều kết quả khả quan. Đặc biệt, khi bàn về quá trình vận động cũng như sự ra đời của phong trào này, các tác giả như Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Đại Đồng, Lê Tâm Đắc,... đã giành nhiều thời gian khảo cứu và đề cập thông qua các công trình và bài viết tiêu biểu như: Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỉ 20, Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924-1954), Sư Tâm Lai và việc vận động chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, Những người đầu tiên khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam...
02/07/2017(Xem: 5406)
Tôi viết “Chấn hưng Phật giáo Việt Nam” không phải từ một nhà học giả, nhà nghiên cứu, mà từ trái tim. Tôi lớn lên dưới nhịp thở mái chùa, dưới bóng Từ Bi, Trí Tuệ và Hùng lực của Đức Phật. Và đây là những gì tôi từng được học hỏi, từng nghe thấy và từng cảm xúc tận đáy lòng. Lịch sử đất nước và lịch sử Phật giáo Việt Nam không thể nào quên những bậc Tăng già chống thiền trượng kiến lập những triều đại vàng son thịnh trị. Chúng ta không thể nào không nhớ đến những bậc tiền bối nhìn thấy sự suy đồi Đạo Pháp mà lên tâm nguyện chấn hưng Phật giáo Việt Nam; không thể nào không nhớ đến cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức mà ngọn lửa, trái tim đã thành hào quang và sự bất diệt trong lòng dân tộc, nhân loại. Chúng ta không thể nào quên hình ảnh chư tôn Hòa thượng trưởng lão khi bước xuống đường, nói vào một chính quyền tàn bạo rằng: tăng ni và phật tử Việt Nam nhất quyết bảo vệ đạo - pháp bằng con đường dân tộc, bất bạo động.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567