Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo và con người đất Bình Đinh

06/08/201817:13(Xem: 6155)
Phật Giáo và con người đất Bình Đinh


Duong Kinh Thanh 2018 (8)

Hội Thảo Phật Giáo và Văn Hóa Bình Định

 

Phật Giáo và con người đất Bình Đinh



1-Con người đất Bình Định

Khi  nói đến  con người và văn hóa Bình Định, một cách tổng quan, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra  những khía cạnh nhân văn rất đáng ngưỡng mộ. Trước hết đó là  Đào Duy Từ ( 1572 – 1634 ), trải lòng  trắc ẩn qua những áng văn thơ của một danh sĩ bôn ba đội lốt chăn trâu, chí nam nhi thời loạn, sự thức thời của sứ mạng vua tôi bên cạnh lẻ ứng sử trong  bối cảnh một đất nước tồn vong vì họa ngoại bang.Ông còn là người đầu tiên mang về cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên ( 1613 – 1635) bộ môn nghệ thuật Hát Bội (Tuồng) đặc sắc . Là một Đào Tấn ( 1845 – 1907 ), ông Hậu Tổ của nền nghệ thuật Hát bội  đặc sắc của dân tộc, ông còn là nhà  nhà văn, nhà thơ lỗi lạc, rất am tường Phật học lẫn Nho học. Rời một Mai Xuân Thưởng  ( 1860 – 1887 ) với mỗi tiếng thơ làm mỗi  tiếng thốt ra tự cõi lòng trước lúc đầu rơi. Một Tăng bạt Hổ ( 1858 – 1906 ) với con đường truân chuyên bôn ba   tứ xứ. Một Nguyễn Bá Huân ưu thời mẩn thế ( 1853 – 1915).Nguyễn Trọng Trì ( 1854 – 1922) chí khí lắng sâu đêm nguyệt tận, một lòng  một dạ với nghĩa quân Cần Vương . Là Đào Phan Duân ( 1864 – 1947) tiết tháo,  bỏ mặc ven đường học vị Phó Bảng đề đánh Tây. Một Hồ Sĩ Tạo ( 1841 – 1907 ) xả thân dưới cờ nghĩa, nằm lại đất này cho thơm tiếng Bình Định  ngàn sau. Hay như  đất  Vân Sơn có năm anh em  nhà họ Nguyễn rất giỏi thơ phú, thi ca, tiếng tốt  vang xa ai cũng đều mến phục.

                            Riêng trong dòng thơ mới, đất Bình Định  còn sản sinh ra những  nhà thơ  tài danh như  một Xuân Diệu ( 1916 – 1985) với  nỗi cô đơn  lai láng trong biển tình nhân thế. Hàn Mặc Từ( 1912 – 1940 ) bó hoa của những miền phiêu linh. Một Chế Lan Viên  ( 1920 – 1989 )với gạch rụng sao rơi  vắt ngang những ánh mắt Chiêm Thành . Còn có một thi nhân Quách Tấn  trang trọng, đài các của ngọn gió Đường Thi phả trên bờ dậu lũy tre, suối ngọt mây thơm quê hương Bình Định. Nơi này còn có tiếng gọi đò chờn vờn trong trăng lạnh của một Yến Lan ( 1916 – 1998 ) trầm mặc bên cạnh  ngọn bút viết kịch  tài hoa.( 1)

                           Đó là chưa  nhắc đần  Bình Định gắn liền với  câu ca dao xưa ca ngợi là một miến đất võ vang lừng khắp đó dây, nhất là  khi  cuộc chiến thắng của anh em nhà Tây Sơn thì môn võ đặc thù đã được thành hình và lan rộng  mọi nơi. Trong đó, trống võ Tây Sơn đã trở thành  một môn nghệ thuật  xuất sắc mà đến bây giờ vẩn còn làm  du khách  say đắm mỗi khi  ghé thăm.


2-Phật Giáo  đất Bình Định

Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được  nhiềuchư thiền Tổ  ghé bước hoằng hóa và  chư  tôn thiền đức bản địa xây dựng  mạnh mạch  Phật đạo  từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên  hình ảnh  Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định  đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi  nhiều kinh điền có  giá trị  để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường  hoằng hóa  của Phật đà luôn mang trong mình sức sống vị tha, nhân ái và hòa  bình, hữu nghị qua từng bước chân  hài cỏ của chư tổ ngàn xưa mà hình ảnh Tổ Nguyên Thiều là một điển hình cao đẹp ấy. Với Hòa Thượng Thích Phước Huệ, vị danh tăng làm rạng danh thêm  cho Phật giáo và vùng đất Bình Định, khi váo các triều vua Thành Thái( 1889 – 1907 ) , Duy Tân ( 1900 – 1945 ) và Khải Định (1885 – 1925) thường mời vào cung thuyết giảng nên được triều đình và sơn môn đồ chúng tôn xưng Quốc Sư.       

Năm 1970, để tưởng niệm và ghi công, Giáo Hội Phật Giáo Việt NamThống Nhất tỉnh Bình Định đã chọn pháp hiệu của hòa Thượng đặt tên cho  Phật học viện  tại tổ đình Thập Tháp: Phật học viện Phước Huệ. “Cái tướng Hữu, Vô trong tâm pháp của Ngài đã thống nhất, giúp cho hạnh nguyện độ thoát quần mê và sự tự tồn dân tộc qua  Duy Tân( Vua), Tâm Minh (Cư sĩ), Mật Thể, Thiện Hoa (tu sĩ).v…v.. trở thành ngọn nguồn bất tận, đến muôn đời sau của Phật giáo Việt Nam” (2).

ht thich bich lien
Hòa thượng Bích Liên – Thích Trí Hải (1876 – 1950)

                         Hòa thượng Bích Liên – Thích Trí Hải, người con của đất An Nhơn hiền hậu, Ngài cũng  góp phần làm rạng danh Phật giáo Bình Định nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung  trong quá trình tích cực tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo,  phụng sự táp chí Từ Bi Âm thường xuyên, góp phần  gióng lên hồi chuông thức tỉnh cho Phật giáo đồ  khắp chốn. Với văn phong chữ Nôm rất chỉnh,Hòa Thượng   phiên dịch trước tác các tác phẩm giá trị như Liên Tông Thập Niệm Yếu Lãm, Tịnh Độ Huyền Cảnh, Tây Song Ký, Tích Lạc Văn. Đặc biệt hơn các bài sám nghĩa  “ Sơn Cảnh Sách” và “Mông Sơn Thí Thực Khoa Nghi”, hai tác p[hẩm chữ Nôm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp văn chương của Hòa Thượng và là các bản sách gối đầu giường cho các thế hệ  mới bước vào nẻo xuất gia. Đó là chưa nói đến  hành trạng và công lao của chư tôn  thạc đức khác của Phật giáo Bình Định, từng vị với nhiều trọng trách khác nhau và điều kiện thời gian khác nhau, góp phần nâng cao vị thế  Phật giáo tỉnh nhà thêm cao trong lòng  dân tộc. Như Hòa Thượng Hưng Pháp ( 1887 – 1075), H.T Tâm Hoàn( 1924 – 1981), H.T Giác Tánh ( 1911 – 1987 ), H.T Thích Đổng Quán ( 1925 – 2009), Ni trưởng TN Diêu Hiền ( 1939 – 2014), H.T Thích thiện Nhơn ( 1931 – 2015), HT Thích Quảng Bửu ( 1944 – 2016), HT Thích Tịnh Nhẫn ( 1948 – 2013), H.T Thích Phước Thành ( 1918 – 2014) v…v…

                      Phật giáo Bình Định  còn sản sinh ra  dòng tán tụng của riêng  mình, so với Phật giáo Huế và Phật giáo Phú Yên, ba vùng đất  có hệ tán tụng  trong nghi lễ Phật giáo của vùng trung trung bộ này, góp phần  không nhỏ vào sự đa dạng văn hóa, nghệ thuật, phổ cập trong công cưộchoằng hóa theo chiều dài lịch sử của từng vùng  đất Phật giáo hiện diện.Điều này chứng tỏ Phật giáo Bình Định  xứng đáng là một vùng đất vốn là nơi xuất thân của nhiều bậc danh tăng  lỗi lạc.

3- Hát Bội  đất Bình Định

                     Võ truyền thống, văn chương  kiệt  xuất, tất cả  như thấm đượm tinh thần  thưởng thiện phạt ác và Từ bi  Vị Tha của Phật giáo qua hai ngàn năm chia ngọt xẻ bùi và hòa quyện cùng dân tộc. Chỉ riêng bộ môn nghệ thuật Hát Bội thôi cũng đủ chứng minh  Bình Định chính là cái nôi sản sinh cho gia sản văn hóa dân tộc bộ môn đặc sắc này. Ở Bình Định, hầu như vùng nào người dân cũng ghiền và biết ca diễn Hát Bội.Có thời, mỗi xã thậm chí mỗi thôn nào cũng đều có thành lập một đoàn Hát Bội. Song để  có được tính chuyên nghiệp cao để được mời đi hát Tế, hát Thứ Lễ thì  không phải đoàn nào cũng làm được. Thí dụ, ví nằm gần làng Hát Bội Nhơn Hòa, gần học bộ đình Vinh Thạnh của Đào tấn nên người Nhơn Thành, An Nhơn không chỉ mê mà còn rành Hát Bội. Đã có  nhiều gánh Hát Bội thì phải có  bộ phận chuyên dựng rạp , sàn diễn. Vì thế ở vùng Đại Chí, xã Tây An, huyện Tây Sơn xưa có một tốp thợ chuyên phụ trách chuyện dựng rạp đi hát lễ.Đám hát nào họ cũng được mời đến trang trí rạp trước, ví có tay nghề cao và mang tính chuyên nghiệp hẳn hoi (3).

                     Không chỉ là yếu tồ giải trí đơn thuần, người Bình Định nói riêng  và khắp nơi nói chung, ngay từ buổi đầu sơ khai của bộ môn nghệ thuật Hát Bội đã mang lại,  người ta yêu thích bởi  nội dung chứa đựng đạo đức, nhân văn của  Hát Bội rất dầy đặc. Vì thế các vở diễn thường có kết cục có hậu  dù rằng ai cũng có thể biết trước . Điều rất thú vị là ở chỗ đó của Hát Bội. Điều này cũng ví như từng gương mặt hóa trang, điệu bộ, vũ đạo, khi diễn viên vừa bước  ra sân khấu  người xem nhận ra ngay hành tung của nhân vật đó ngay. Chính yếu tố đạo đức, nhân văn cao của hát Bội mà ông bà ta xưa đã  xây dựng  lối nghệ thuật ước lệ thông minh, không rườm rà hình thức tranh dành với  giả hợp  chung quanh, để người xem tập trung vào nhân vật, vào nội dung vở diễn.

                     Như đã nói, Phật giáo là một trong những  nguyên tố quan trọng , góp phần hình thành nên nếp sống, lối sống của người  và văn hóa đất Bình Định. Nghệ thuật hát Bội  cũng nằm trong nếp sống văn hóa ấy. Khổng Tử đã nói “Thẩm âm tri chính “ – Qua âm nhạc , nghệ thuật, để muốn biết giá trị tinh thần văn hóa nơi đó ra sao. Còn văn hào Pháp Victor Hugo ( 1802 – 1885 ) thí chinh trị hóa hơn khi cho rằng “ Một dân tộc nô lệ, nghệ thuật làm cho nó tự do; một dân tộc tự do, nghệ thuật làm cho nó vĩ đại”. Vì thế chúng ta từng chủ trương ra và sức bảo tồn giá trị nghệ thuật truyền thống dân tộc  chính là gìn giữ ý nghĩa  to lớn này.


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (5)Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (4)

                   

Một thí dụ điển hình về giá trị tinh thần Phật giáo, con người và văn hóa đất Bình Định qua nghệ thuật Hát Bội. Đó là cụ Đào Tấn ( 1845 – 1907 ), một người con  đất Bình Định ( người làng Vĩnh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước), một người rất am tường Phật học lẫn Nho học. Cụ là người có công lao rất lớn khi có một cuộc chỉnh biên các vở tuồng Hát Bội trong phường bản – tức các vở  đã có  trước  lưu hành trong dân gian. Và khi chỉnh biên xong đã trở thành  các vở của kinh bản, dưới triều vua Minh mạng ( 1791 – 1841 ). Vở hát Bội tiêu biểu nhất  mà cụ dày công chăm chút  là vở San Hậu. Một trong những vở Hát Bội hoàn toàn của  đất nước  và con người An Nam chúng ta, không phải của Trung Hoa, dù nội dung  có giã định  từ ngữ “Nhà Tề “ và “Nhà Tạ”.Theo các nhà nghiên cứu , chính cụ Đào Tấn đã chỉnh sửa và viết lại toàn bộ hồi thứ III của vở San Hậu, Nơi  mà có rất nhiều  tình huống nhân vật kịch chạm rất sâu vào  tư tưởng Phật giáo. Trước hết  về “thứ tự cấp bậc”( xin phép được nói vui) trong nhà Phật. Khi bà Nguyệt Hạo Tam Cung ( Tạ Nguyệt Kiểu ) vì buồn  chán ba đứa em dòng họ Tạ nhà mình, bỏ  vào tây Sơn Tự  xuất gia, nơi đó hiện có bọn xấu ( Giả Ngu) mạo danh tu hành chiếm ngụ, bày sẵn kế mưu để hảm hại bà, nhưng Hộ Pháp “ra lệnh “ cho Thành Hoàng : “Phụng mệnh Như Lai khiến / Nào dương cảnh Thành Hoàng (nghe ta dặn) Nay có bàNguyệt Hạo nương/ Thìn lòng nhân đức. có dạ tu trì/ Vã đây gần sơn tự ác tăng/ khá bảo hộ người lành kẻo hại.”Thành Hoảng đáp : “Thừa kim Thần sắc hạ/ Quản chúng tới hộ tòng/ Phòng khi chúng nó hành hung / Thời đã có ta bảo hộ”. Xuất hiện trong vở chỉ có  mấy câu đới đáp đó chỉ bằng âm thanh hậu trường, thay vì cho Quan Âm Bồ Tát  ra tay thậm chí Như Lai Phật Tổ  giáng phép , bấy nhiêu đó cũng đủ chứng minh ngòi bút của Đào Tấn   hiều biết Phật học ở cấp độ nào. Đả có nhiều  ý kiến khẳng định  Nội dung Hát Bội  hầu hết đều đề cao Nho gia, ca ngợi khí tiết quân chủ “Quân xử thần tử, Thần bất tử bất trung, bất hiếu”. Do đó con có thể chống lại  cha mẹ hay ngược lại, anh em , thân bằng quyến thuộc có thể trở thành cừu nhơn chỉ vỉ để bảo vệ nề nếp của đạo quân thần tử  theo kiều ấy. Và như thế  người ta so sánh vai trò Phật giáo trong các vở Hát Bội thường bị lu mờ, thậm chí trái ngược với chủ đề   nền tảng Nho gia. Thật ra  sự xuất hiện   của Phật giáo trong nội dung  Hát Bội thường nằm  ở góc độ tiềm ẩn và bàng bạc  trong các nội dung là  triết lý Nhân- Quả  khá rỏ nét. Có thể gọi đó là cái NHU so với cái CƯƠNG của Nho gia trong Hát Bội. Trong vở hát Bội San Hậu  thì những điều đề cao Nho gia đều bị hụt hẩng bởi cái NHU của Phật giáo thắng thế. Quả thật cụ Đào Tấn  luôn muốn đề cao  triết lý  Từ Bi, Nhân – Quả  của Phật giáo rõ nét hơn, phủ trùm lên nhiều nhân vật. Khi bọn Giã Ngu bị  Thành Hoàng Thổ địa vặn họng bẻ tay thì kịp lúc Đổng Kim Lân và Phàn Diệm cũng tới nơi và nói “Tới đây vì có Thần linh/ Cứu đặng cũng nhờ ơn Phật”. Và triết lý Từ Bi Nhân-Quả của Phật giáo trong vở được  cụ Đào Tấn đầy lên  đỉnh điểm ở phần cuối vở San Hậu. Đó là  cảnh trước  Phật đài   hương khói uy nghiêm của Tây Sơn Tự Bà Tam Cung Nguyệt Hạo – hiện cũng là  một vị Ni giới xuất gia, cho năm anh em dòng họ Tạ ( hiện đang  còn sống sót có hai Tạ Thiên Lăng và Tạ Lôi Vân), đang quỳ phủ phục, thấy rõ cái Quả mà họ đã tạo ra trước đây mà mình đã từng khuyên ca nhưng  không được.Với cái NHÂN lành của bà  Nguyệt Hạo  trước đây, từng ra tay cứu  giúp mẹ con thứ phi Phượng Cơ và ấu chúa, nay vua đã được  6 tuổi, bà van xin tha mạng cho hai đứa em tội nghiệp do nghiệp chướng sâu dầy. Hoàng tử vội đỡ  bà đứng lên và kính thưa lễ phép “Thưa Á Mẫu! Chi hai mạng chẵng dung/  Ước còn năm cũng thứ “. Thông thường đạo vua tôi Quân- Thần- Tử, công và tội phân minh. Xử chém trước rồi nói chuyện  ơn nghĩa sau. Ở đây lại khác,  Cụ Đào Tấn  nhấn mạnh đức hiếu sinh và lòng từ đại lượng của Phật giáo bao giờ, lúc nào, ở đâu cũng nằm trên thế  thượng võ, đáng được  đề cao.


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (3)

Tác giả Dương Kinh Thành


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (1)
Tác giả Dương Kinh Thành


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (2)

Tác giả Dương Kinh Thành
Bên Bảo Tháp Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang (xem tiểu sử)




Tưởng cũng cần nói thêm  rằng trong nghệ thuật Hát Bội có nhiều thể loại để phân định qua cách gọi Tuồng Đồ , Tuồng Pho, Tuồng Truyện, Tuồng Hài, Tuồng Dân Gian v…v..Như vậy vở San Hậu thuộc  thể loại  Tuồng Đồ, tức phóng tác hay dựa theo, không có trong sử sách. Tuồng Pho là thể lọai  biểu diễn dài hơi, kéo dàinhiều đêm mới hết vở diễn. Tuồng Truyện phần lớn thuộc  truyện của Trung Hoa như  Tam Quốc Chí, Tiết Nhơn Quý.v…v…Tuồng Hài như “Ông Trượng Tiên Bửu, Ông Địa và Nàng Tiên, Trương Ngáo Đòi Nợ Phật, Trương Đồ Nhục v…v…Tuồng Dân Gian như Ăn Khế Trả Vàng, Quan Âm Thị Kính. Quả Báo Nhãn Tiền v…v…Qua đó, chúng ta  thấy rõ không phải vở diễn Hát Bội nào cũng  thuộc  lịch sử, câu chuyện của Trung Hoa. Ngay cả cách hóa trang, điệu hát hoàn toàn  không giống bất kỳ một chi tiết nào của  thể loại Kinh Kịch  của xứ người. Có thể, còn chút vương vấn  bị cho là “lai Tàu” hoặc qua  các bộ giáp trụ của diễn viên Hát Bội chúng ta ? Nhưng điều đó cũng không cáo gì sai trài một khi tinh túy và hình thức của Hát Bội đã hoàn toàn  thuộc về bản sắc người An Nam từ lâu. Ngay như  Hát Bội Bình Định  ( đại diện cho cả khu vực  miền trung) và Hát Bội miền Nam cũng đã rất  khác nhiểu mặt, dù nội dung các vỡ diễn vẫn trung thành, thống nhất như nhau. Tưởng  cũng chẳng thứa khi chúng ta  biết thêm một thí dụ nữa là  về vị nhạc sư Nguyễn Quang Đại (  miền Nam gọi thân mật là Thầy Ba Đợi), vốn là một nhạc quan triều đình nhà Nguyễn, chạy tránh loạn vào nam sáng tác các bài bản được cho là  các bản Tổ củaNhạc Lễ và  nhạc tài tử Nam Bộ, dựa vào  tiêu chuẩn của hệ thống  nhạc cung đình Huế  và ca Huế trong dân gian. Vì thế tuy nghe tựa đền  bài  hát  không khác với Ca Huế  hay nhạc cung đình như Lưu Thủy, Cổ bản Kiêm Tiền, Phú Lục, trong hệ thống “Ba Nam, sáu Bắc, Bảy bài”, hay “Tám bản Ngự’.v..v…nhưng khi nghe thì khác xa nhau hoàn toàn.( Long vị của ông Ba Đợi thờ tại  đình Vạn Phước, xã Mỹ Lệ huyện Cần Đước tỉnh long An: “Phụng sự quá vãng Nguyễn Quang Đại nhứt vị chi linh- Hoàng triều nhạc sư- Nam Bộ đại nhạc tông” ).

4- Tổng Luận

 Như vậy, con người và văn hóa đất Bình Định, trong đó có  tinh thần chân lý như thị của Phật giáo đóng góp rất lớn, đem nhiều lợi lạc cho cuộc sống hôm nay và cả đến mai sau. Có những  con người, những vấn đề vì  nhiều nguyên do khách quan nào đấy , còn đang chờ đợi nhân duyên tác hợp để củng cố và tăng cường cho sức mạnh  Phật giáo cũng như con người   Bình Định. Ai trong chúng ta cũng đều có  chung một niềm tin như thế vì đó là một niềm tin chánh đáng , và trên hết  bằng tinh thần yêu  truyền thống dân tộc thiết tha, , nhất định  một tương lai tươi sáng sẽ sẵn chờ đón  phía trước.

 

Kính chúc Hội Thảo thành công tốt đẹp.

 

Sài gòn , tháng 6/ 2018

Dương Kinh Thành

( Trung tâm Nghiên Cứu  Phật Giáo Việt Nam)

 

 

 

 

Các chú thích:

1)      Trích văn Hóa và con người Bình Định.

2)      Trích Danh Tăng Việt Nam-NXB Tôn Giáo 2017-Đồng Bổn chủ biên.

-          Lược Khào Phật Giáo Sử VN- Vân Thanh- VHĐ ấn hành 1974.

-          Lịch sử Phật giáo Đàng trong- Nguyễn Hiền Đức- Tập I-NXB thành Phố 1996

3)      Theo Hát Bội Bình Định-Văn Hoc Nghệ Thuật-vanchuongviet.org.

Và các  bài viết chuyên đề Nghệ thuật sân khấu Phật giáo của  tác giả đăng trong các tạp chí và Tập Văn BVNTW/GHPGVN số 41/ NXB TP.HCM 1998.

______

* Bài liên quan:

 

Hàn Mặc Tử và Thơ Phật Giáo (Cư Sĩ Trí Bửu)

Phật Giáo và con người đất Bình Đinh (Cư Sĩ Dương Kinh Thành)

  Sự Đóng Góp của Chư Tăng Bình Bịnh .... (TT TS Thích Hạnh Bình)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 3520)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
07/07/2011(Xem: 28189)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 8349)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 3519)
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ? Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu, tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.
23/06/2011(Xem: 4248)
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo. Từ phương Bắc, Trung Quốc đã tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lãnh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống còn và giữ gìn sự độc lập của mình, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo ...
20/06/2011(Xem: 7236)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 4858)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
16/06/2011(Xem: 14103)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
15/06/2011(Xem: 5872)
Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
15/06/2011(Xem: 2547)
1. Tín-ngưỡng ở Giao-châu Trước khi các tông-giáo tràn vào, người Việt chắc đã tôn-sùng những mãnh-lực thiên-nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di-tích còn lại không những ở trong tập-tục của dân-gian, mà trong điển-lệ tế-tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc-tích từ đâu tới. Thần Cao-sơnchắc cũng là đức-thánh Tản-viên, thần Long-thủy có lẽ gốc ở thác Bờ. Lại như các đền hay "chùa" Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điệnhẳn là di-tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567