Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời ngỏ

26/09/201019:47(Xem: 3975)
Lời ngỏ

hân loại có hai nguồn văn minh lớn đó là văn minh phương Đông và văn minh phương Tây. Các thể loại văn hoá, nghệ thuật, triết học, thiên văn học… hầu hết các nguồn văn minh này được khởi nguồn từ thời cổ đại ở các quốc gia như Hy Lạp và La Mã thuộc phương Tây - Trung Quốc và Ấn Độ thuộc phương Đông. Khi nói đến tiến bộ văn hoá phương Đông, Ấn Độ cũng như Trung Quốc, đạo đức tâm linh và tôn giáo đóng vai trò rất quan trọng. Đặc biệt nhất khi đề cập đến văn minh Ấn Độ, chúng ta phải thừa nhận rằng, Ấn Độ là cái nôi của văn hoá lễ hội và là xứ sở tôn giáo đa phức. Gần như xuyên suốt quá trình phát triển văn hoá Ấn Độ, lễ hội và tôn giáo luôn gắn liền với mọi sinh hoạt truyền thống của người dân Ấn, và nét đặc trưng này không chỉ tồn tại trong thời sơ khai, thậm chí bây giờ nó vẫn còn phản ánh trong đời sống thường nhật của họ.

Phật giáo được xem là một trong những tôn giáo có mặt sớm nhất trong thời văn minh Ấn Độ cổ đại, vào thế kỷ thứ VI trước kỷ nguyên Tây lịch. Một điều đặc biệt là, Phật giáo không mang tính tôn giáo đơn thuần chỉ phục vụ cho tín ngưỡng lễ hội, mà ngoài tính triết lý siêu thế đạo Phật còn là một phương pháp sống hết sức thiết thực nhằm xoá đi nỗi đau khổ và giúp con người trong mỗi thời đại tìm được hạnh phúc an lạc cho chính bản thân mình ngay tại cõi đời này. Vì vậy, ngày nay đạo Phật càng được nhiều người biết đến; sự quan tâm của các ngành khoa học, giới học giả và những nhà nghiên cứu xem những lời dạy của đức Phật là một đề tài lớn, cần được tìm hiểu và thảo luận một cách kỹ càng để lấy những tinh hoa Phật giáo xây dựng nền tảng hạnh phúc cho nhân loại. Do đó, những gì liên quan đến phật giáo, cho dù chỉ là những di tích cũ mục còn sót lại, cũng cần được giới thiệu để mọi người biết đến như những chứng tích hùng hồn về sự thật lịch sử của một tôn giáo với bề dày gần 3000 năm.

Vào năm 2006, khi được du học tại Ấn Độ, nhiều lần dự định đi chiêm bái và thực hiện phim tư liệu về các thánh tích Phật giáo, nhưng do nhiều mặt còn hạn chế lại thêm thời gian không cho phép nên đành kéo dài đến giao thời 2007 - 2008, chúng tôi mới đủ duyên lành đảnh lễ các thánh tích, đồng thời ghi một số hình ảnh làm bộ phim tư liệu về đất Phật.

Có hai động cơ chính để chúng tôi phải cố gắng hoàn thành công việc khiêm tốn này:

Thứ nhất, sau chuyến hành hương đất Phật do công ty du lịch Biển Đông (East Sea) tổ chức vào tháng 11 năm 2005, chúng tôi đã quay phim ghi hình tóm tắt toàn bộ chuyến đi từ thánh tích Phật giáo cho đến những gì liên quan trên suốt đoạn đường để làm kỷ niệm. Mặc dù đó chỉ là hình ảnh được ghi lại theo tinh thần “kiến văn tiểu lục” để kỷ niệm cho chuyến hành hương mang tính cá nhân nhưng mọi người vẫn xem một cách say mê, đôi khi còn tỏ vẻ tiếc nuối bởi những chỗ đứt ngang, không phải vì thích bộ phim tôi quay, mà chỉ vì muốn thấy được hình ảnh thực trên quê hương Phật giáo, là xứ sở thường được nhắc đến trong kinh điển.

Thứ hai, mỗi khi xem các phóng sự về văn hoá đặc biệt nhất là văn hoá Ấn Độ, tôi bỗng liên tưởng ngay đến Phật giáo, một nơi được gọi là thánh địa thiêng liêng, nhiều chứng tích lịch sử quan trọng, lại thêm tư liệu dồi dào, tại sao chúng ta chưa có bộ phim nào nói đến toàn bộ thánh tích Phật giáo cho tương xứng với tầm vóc bề dày lịch sử của một tôn giáo lớn trên thế giới!

Từ hai động cơ trên, tôi quyết tâm thực hiện bộ phim này với những phương tiện khiêm tốn, thô sơ của một tăng sinh du học có được. Gần ba năm nuôi ước nguyện, khi hội đủ duyên lành, tôi cùng với một vài người bạn thân âm thầm thực hiện bộ phim này với ước mong làm một gạch nối, gợi ý đến những ai có thiện chí và khả năng chuyên môn hầu thực hiện hoàn hảo bộ phim về các thánh tích Phật giáo.

Trong khi viết lời bình cho bộ phim với tựa đề Phật Quốc Ký Sự, chúng tôi nhận thấy nhiều thông tin quan trọng, cần giới thiệu đến các Phật tử và những người muốn tìm hiểu về đất Phật. Và đó là khởi điểm cho tập sách nhỏ này được ra đời cùng một chủ đề. Trong tập sách này, chúng tôi chú trọng chủ yếu đến tứ động tâm, là bốn sự kiện trọng đại liên hệ đến cuộc đời đức Phật: Đản Sanh, Thành Đạo, Chuyển Pháp Luân và Nhập Niết Bàn. Bên cạnh đó chúng tôi cũng liên hệ đến những thánh tích cần thiết, mong được chia sẽ cùng quý bạn đọc về những điều đã chứng kiến và bao tâm sự vui buồn được cảm nhận trong chuyến hành hương vào dịp xuân Mậu Tý - 2008.

Nội dung tập sách này không phải là tư liệu về sử học hay khảo cổ học, nhưng đã được tham khảo nhiều tác phẩm và những bài viết liên quan đến các thánh tích Phật giáo tại Ấn Độ, chúng tôi mô tả lại những chi tiết cần thiết dưới dạng ký sự, phản ảnh lại một vài sự kiện lịch sử nổi bật trong quá khứ và hiện tại ở các khu thánh địa từng trải qua thời hoàng kim Phật giáo, nhất là giai đoạn đức Phật còn tại thế. Một Lâm Tỳ Ni (Lumbini) thiên nhiên thơ mộng, nơi Bồ Tát Hộ Minh giáng trần từ cõi trời Đâu Xuất; Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) đồ sộ nguy nga, khởi nguồn cho một đạo Phật từ sự giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác của nhà khổ hạnh Sĩ Đạt Ta dưới cội Bồ Đề; Một Lộc Uyển (Sarnath), vườn nai thanh bình trong xứ Ba La Nại, nơi Phật chuyển bánh xe pháp đầu tiên; Câu Thi Na (Kusinagar) cô tịch trầm buồn cho lần ra đi cuối cùng của Phật tại rừng Ta La song thọ… và còn biết bao điều chưa được biết đến đối với người con Phật chúng ta!

Để dễ dàng trong việc tìm hiểu, chúng tôi sắp xếp nội dung theo trình tự diễn tiến cuộc đời đức Phật, vì vậy các địa điểm bị sai khác với lịch trình đi của chúng tôi nên có những đoạn chuyển ý không được liên kết với nhau. Hơn nữa, từ sự cảm nhận thực tế trong một vài cảnh tượng trùng hợp gây nên cảm xúc của riêng mình, đôi khi cũng có những ý kiến đánh giá chủ quan; vả lại, lực bất tòng tâm, thiện ý mong chia sẻ với mọi người về những điều hay mà mình có dịp tường tận chứng kiến, nhưng khả năng còn nhiều mặt hạn chế, diễn đạt câu văn chưa tròn, xin qúy độc giả đạt ý quên lời, lượng thứ bỏ qua những điều còn khiếm khuyết, người viết xin ghi nhận sự góp ý chân tình từ quý bạn đọc, để bổ khuyết cho lần tái bản được hoàn hảo hơn. 

New Delhi, 15/3/2008

Thích Phước Tiến

Kính đề

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/08/2011(Xem: 13090)
Nói đến tinh thần "Hòa quang đồng trần" tức là nói đến tinh thần nhập thế của đạo Phật, lấy ánh sáng của đức Phật để thắp sáng trần gian, “sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”, và biết cách biến sứ mệnh đạo Phật thành lý tưởng phụng sự cho đời, giải thoát khổ đau cho cá nhân và xã hội. Thời đại nhà Trần và đặc biệt vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã làm được điều này thành công rực rỡ, mở ra trang sử huy hoàng cho dân tộc.
13/07/2011(Xem: 3861)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
07/07/2011(Xem: 30975)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 9673)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 3942)
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ? Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu, tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.
23/06/2011(Xem: 4678)
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo. Từ phương Bắc, Trung Quốc đã tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lãnh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống còn và giữ gìn sự độc lập của mình, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo ...
20/06/2011(Xem: 8402)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 5551)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
16/06/2011(Xem: 15841)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
15/06/2011(Xem: 6289)
Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]