Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 3: Thực hành

10/10/201112:59(Xem: 8270)
Phần 3: Thực hành

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 3: THỰC HÀNH

Phương Pháp Tu HọcHàng Ngày

I.- Dẫn: Chúng ta trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi là do Vô minh nên bị Tam độc: Tham, Sân, Si gây ra. Là một Phật Tử, chúng ta phải có chương trình tu học hàng ngày, cũng gọi là công phu tu tập, để xóa bỏ Vô minh, công phu ấy không ngoài Giới, Định và Huệ.

II.- Nội dung: Giới Định Huệ cũng còn được gọi là Tam Học, chúng có liên quan mật thiết với nhau, vì người có giữ Giới mới sanh Định, có Định mới sanh Huệ.

1) Giới:Người Cư sĩ tại gia chúng ta, Phật chế ra năm giới để tu học. Muốn thoát khỏi luân hồi sanh tử, người Phật tử chúng ta phải diệt trừ : Lòng dâm dục, sát hại chúng sanh, trộm cướp, nói dối và uống rượu. Giới phải giữ trong tâm và ngoài thân cho được nghiêm mật. Giới rất quan trọng, Phật dạy phải tôn trọng Giới như là Thầy của tất cả những người con Phật.

Vì lòng thương chúng sanh, Phật dạy chúng ta ăn chay để khỏi giết hại những sanh vật. Trước nhất chúng ta tập ăn chay kỳ, mỗi tháng ăn 2 ngày là mồng Một và Rằm. Ăn chay 4 ngày là ngày 30 (tháng thiếu 29) và mồng Một, ngày 14 và Rằm. Ăn chay 6 ngày là 1, 8, 14, 15, 23, 30 (hay 29), ăn chay 10 ngày là 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu 27, 28, 29).

Nếu được, một năm nên ăn chay 1 tháng hay 3 tháng. Nếu ăn chay một tháng thì chọn tháng Giêng hay tháng Bảy, còn ăn chay 3 tháng thì các tháng Thượng Nguơn (Tháng Giêng), Trung Nguơn (Tháng Bảy), Hạ Nguơn (tháng Mười).

Tiến lên nữa là ăn chay trường, sẽ giúp cho thân thể ít bệnh hoạn, trí tuệ được minh mẫn, tránh cho ta khỏi nghiệp sát sanh.

Vì ăn chay là ăn ngủ cốc, rau cải, trái cây cho nên rất dễ tiêu hóa, làm cho bụng mau đói, ăn chay kỳ nên chăm sóc bữa ăn, nên có món ăn ngon miệng, để cho việc ăn chay được dễ dàng, không chán ngán. Người ăn chay trường nên chăm sóc bửa ăn, đừng để thiếu chất bổ dưỡng sanh ra bệnh tật, từ đó người khác có kết luận sai lầm : Ăn chay hay bị bệnh tật.

Phải ráng giữ đúng kỷ luật, đúng ngày chay thì ăn, dù ngày đó có tiệc tùng chúng ta cũng vẫn giữ ăn chay, có như thế việc ăn chay của ta mới có ý nghĩa và được nhiều lợi lạc.

2) Định: Có mục đích làm cho tâm của mình được định, người ta hiểu định có nghĩa là Thiền định hay ngồi thiền để cho tâm được thanh tịnh. Người ta ví tâm như con vượn, ý như con ngựa(tâm viên, ý mã) bởi vì sự hoạt động của tâm vừa lăn xăn, lộn xộn vừa nhanh chóng. Nếu ta ngồi yên sẽ thấy tâm ta nghĩ chuyện nọ lại nhảy sang chuyện kia, tưởng nhớ đến chuyện xa chuyện gần, nó vượt trùng dương còn nhanh hơn ngựa chạy, bằng với làn sóng điện. Những pháp môn như ngồi Thiền, niệm Phật, trì chú, tụng kinh cũng đều làm cho tâm ta thanh tịnh hay là định tâm.

A.- Thiền định: Là phương pháp định tâm hữu hiệu nhất, người ta lựa chỗ yên tịnh, không nóng quá, không lạnh quá, ngồi kiết già hay bán già, toàn thân buông thả, để tâm chuyên chú vào một sự vật thật đơn giản, chẳng hạn như một vòng tròn màu vàng, theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra. Muốn được tường tận hơn xin đọc sách, như Thiền Căn Bản của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Kinh Quán Niệm Hơi Thở của Thiền Sư Nhất Hạnh dịch, đã đăng trong Phật Học số 20, bài Thiền đăng trong Phật Học số 15 và 16, hoặc những sách dạy Thiền của Phật Giáo.

Phương pháp Thiền áp dụng hữu ích cho những người còn trẻ cho đến khoảng 50 tuổi, bởi vì độ tuổi nầy thân thể còn khoẻ mạnh, trí óc minh mẫn dễ định tâm, ngồi Thiền phải tu tập hàng ngày, mỗi thời phải từ 30 phút trở lên đến 1, 2 giờ, người lớn tuổi sẽ bị chân đau, lưng mõi, do đó khó mà tu tập.

B.- Niệm Phật: Pháp môn nầy tuổi nào tu cũng được, và Niệm Phật bất cứ lúc nào; khi đi, đứng, nằm, ngồi. Ấn Quang đại sư ngài dạy cho đến đi vệ sinh cũng niệm Phật, niệm niệm không dứt, mục đích là làm thế nào cho tâm ta cột chặt vào danh hiệu Phật, chẳng hạn như tâm ta khư khư chẳng chuyển với sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật. Nên đọc những sách như Lá Thư Tịnh Độ của Ấn Quang Đại Sư do Liên Du dịch, Niệm Phật Thập Yếu của Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, Tây Phương Du Ký của Pháp sư Khoan Tịnh do Hữu Từ và Tâm Hảo dịch, bài Niệm Phật đăng trong Phật Học số 17.

Người ta niệm Phật to tiếng, nhỏ tiếng hay niệm thầm, có hay không lần tràng chuỗi đều được cả, pháp môn nầy rất thích hợp cho người già. Nên nhớ câu : Nhứt cú Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn khảy đáo Tây Phương. (Một câu niệm Phật chẳng dứt, đừng lo chỉ khảy móng tay là đến Tây Phương).

C.- Trì chú: Trì chú có nghĩa là chúng ta đọc chú, người ta cho chú là linh ngữ hay mật ngữ, tức là nó có hiển linh, đọc để trừ tà ma quỷ quái hay nó là lời kín nhiệm không thể hiểu hay không cần hiểu, đọc nó trúc trắc, gần như lập đi lập lại, cho nên người ta dễ đọc câu nọ ra câu kia, câu sau đọc trước, câu trước đọc sau. Do đó tâm phải chuyên chú vào mới không bị nhầm lẫn, đó cũng là phương pháp định tâm. Chú Đại Bi còn ngắn, còn dễ, qua Chú Lăng Nghiêm mới thấy là trúc trắc khó nhớ, dễ lộn nếu không định tâm.

Theo Mật Tông, miệng niệm chú, tay còn phải bắt ấn, vị nào muốn nghiên cứu xin xem bộ Hiển Mật Viên Thông của ngài Viên Đức, nhưng nếu không có thầy chỉ dạy có lẽ không nên tập luyện thì tốt hơn.

D.- Tụng kinh: Cũng là cách để cho chúng ta định tâm, bởi vì nếu chúng ta không định tâm, tụng xong thời kinh, ta sẽ không hiểu gì cả. Chúng ta nên tụng kinh gì? Kinh gì tụng cũng được nhưng có một số kinh được tụng trong những trường hợp đặc biệt, thí dụ khi Cầu siêu để hóa độ cho người chết, người ta tụng kinh A Di Đà; để Cầu an cho người bệnh hoạn, nạn tai người ta tụng Phẩm Phổ Môn; gặp khi đau yếu, người ta tụng kinh Dược Sư; một người đau lâu trở bệnh nặng, người ta tụng kinh Địa tạng..., ngày nay nhiều người hay tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa hay gọi tắc là Kinh Pháp Hoa.

3) Huệ:Huệ là sự phát chiếu của Trí huệ sau khi được tẩy sạch phiền não và vô minh, Huệ có được do tâm tịnh thì trí huệ sanh hoặc do tu theo phương pháp mở mang trí tuệ : Văn, Tư, Tu.

Văn huệ là do tai nghe âm thanh, mắt thấy kinh điển Phật mà hiểu được nghĩa lý, cho nên chúng ta cần phải thường xuyên đọc kinh điển, những người sơ cơ hay những người muốn có căn bản về Phật Pháp nên đọc quyển Phật Pháp (do quý Đại Đức nay đều là Hòa Thượng Minh Châu, Thiên Ân, Chơn Tri, Đức Tâm soạn theo chương trình dạy Đoàn sinh Gia Đình Phật Tử, nhưng ai đọc cũng hữu ích), hoặc bộ Phật Học Phổ Thông của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, bộ nầy tuy soạn cho đại chúng nhưng viết ở trình độ cao hơn, phải đọc từng bài theo thứ tự từ thấp tới cao, đọc xong 2 bộ sách nầy, người đọc sẽ có trình độ hiểu biết Phật Pháp khá vững, sau đó đọc sang kinh Pháp Hoa, Niết Bàn ... Muốn hiểu rõ Phật và các đại Đệ Tử của Ngài, nên đọc Phật và Thánh Chúng của Cao Hữu Đính, hay quyển Đức Phật và Phật Pháp của Đại Đức Narada, về sử Phật Giáo Việt Nam, nên đọc Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang (Cũng là bút hiệu của Thiền Sư Nhất Hạnh), nên có Bộ Phật Học Đại Từ Điển của ông Đoàn Trung Còn, bộ nầy tuy không đầy đủ nhưng tạm giúp cho chúng ta tìm kiếm những danh từ Phật Học thông thường nhanh chóng. Những sách nầy Phật Học Viện Quốc Tế , 9250 Columbus Ave. North Hills, CA. 91343 - Tel. (818) 893-5317 có phát hành, có thể gửi thư xin danh mục để biết giá cả và những sách khác. NXB Lá Bối P.O. Box 781 San Jose CA. 95106-0781. Phone : (510) 686-2908

Tư huệ là do suy tư nghĩa lý kinh điển mà thấu đáo chân lý,

Tu huệ là do tu hành thể nghiệm và thể nhập mà chứng ngộ được chân lý.

III.- Kết luận: Phật dạy có 8 vạn 4 ngàn pháp môn tu tập, mỗi người chúng ta tùy theo căn cơ phù hợp với pháp môn nào nên theo pháp môn ấy, điều cần nhất là phải tinh tấn chuyên cần, giờ giấc công phu không nên trễ nãi. "Tu nhất kiếp, ngộ nhất thời", chỉ cho những người có căn cơ, họ là những bậc xuất gia hay những vị vào trong thâm sâu cùng cốc tu hành, là điều khó đạt được ở một người Cư sĩ, nhưng mà hạ thủ công phu tu trong 5 năm, 10 năm chúng ta sẽ thấy những gì mà chúng ta đã đạt được. Tu là để chuyển nghiệp, để giải thoát khỏi luân hồi bị chìm trong trầm luân khổ hải. Xin nhớ lời Phật dạy "Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi".

30-11-1996 & 27-11-1997

Sách Tham khảo:

MINH CHÂU, THIÊN ÂN, CHƠN TRÍ, ĐỨC TÂM Phật Pháp, THPGVN. Sàigòn. 1951

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2011(Xem: 2973)
1. Tín-ngưỡng ở Giao-châu Trước khi các tông-giáo tràn vào, người Việt chắc đã tôn-sùng những mãnh-lực thiên-nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di-tích còn lại không những ở trong tập-tục của dân-gian, mà trong điển-lệ tế-tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc-tích từ đâu tới. Thần Cao-sơnchắc cũng là đức-thánh Tản-viên, thần Long-thủy có lẽ gốc ở thác Bờ. Lại như các đền hay "chùa" Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điệnhẳn là di-tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
13/06/2011(Xem: 4124)
Chùa Báo Thiên và tháp Đại Thắng Tư Thiên là do vua Lý Thánh Tông đứng ra chủ trì việc xây dựng. Nói cách khác là do nhà nước đứng ra làm “chủ đầu tư” theo cách nói hiện nay. Chùa và tháp là hai biểu tượng của Phật giáo, nhưng do là một người theo Phật, vua đã cho xây chùa năm 1056 và dựng tháp năm 1057.
13/06/2011(Xem: 14339)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
10/06/2011(Xem: 6061)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
31/05/2011(Xem: 23767)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
26/05/2011(Xem: 2951)
Lý Thần Tông kiếp trước là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Lý Thần Tông tên thật là Lý Dương Hoán, con của Sùng Hiền Hầu (em ruột Lý Nhân Tông), được Lý Nhân Tông nhận làm con nuôi rồi truyền ngôi cho năm Đinh Mùi (1127). Sách Đại Việt sử lược cho biết vua Lý Thần Tông chính là hiện thân kiếp sau của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Từ Đạo Hạnh tên thật là Từ Lộ, ông bị Lý Nhân Tông bắt tội khi yểm bùa trong lễ cầu thác sinh có con của vua. Lúc đó Sùng Hiền Hầu đi qua, Từ Lộ đề nghị cứu giúp, “ngày sau xin ngụ thai trong cung để báo đáp công đức này”.
25/05/2011(Xem: 6179)
“Uống nước nhớ nguồn”, đó là lẽ thường tình của con người, huống hồ là Phật tử. Hôm nay hàng Phật-tử chúng ta đang sống trong hào quang tươi sáng của Phật, trong một tổ chức có quy-mô, trong một đường lối giáo dục có phương pháp và trong một tinh-thần thống nhất ý chí-hành động. Đó là nhờ sự gắng công thường xuyên, ý chí bất khuất của các bậc Tiền-Bối trong Phong trào Chấn Hưng Phật-giáo Việt-Nam, 50 năm về trước, của 3 miền Nam, Trung, Bắc.
09/05/2011(Xem: 6417)
Gan lam Truong Sa - Minh Hue. Gần lắm Trường Sa - Minh Huệ. Trích: Xuân Trường Sa 2014. VTV1 ngày 08-03-2014. GẦN LẮM TRƯỜNG SA Mỗi cánh thư về từ đảo xa, Anh thường nói rằng Trường Sa lắm xa xôi. Nơi anh đóng quân là một vùng đảo nhỏ, bên đồng đội yêu thương. Chỉ có loài chim biển, sóng vỗ điệp trùng quanh ghềnh trúc san hô. Trường Sa ơi, biên đảo quê hương, đôi mắt biên cương, vẫn sáng long lanh giữa sóng cuồng bão dập, đảo quê hương. Anh vẫn đêm ngày giữa biển khơi, thương nhớ sao nguôi ngươi chiến sĩ Trường Sa ơi. Không xa đâu Trường Sa ơi, không xa đâu Trường Sa ơi. Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em. Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh. Mong cánh thư về từ đảo xa, Nơi thành phố này, Trường Sa mãi bên em. Anh ơi có nghe lời người từ phố biển, khi ngọn triều dâng cao. Khi cánh Hải âu về, khi nắng sang mùa, nơi đảo trúc san hô. Chiều Nha Trang, sao bỗng bâng khuâng, như thấy anh đang, sừng sững kiên trung giữa pháo đài giữ đảo. Trường Sa ơi. Trông
27/04/2011(Xem: 4642)
Tôi treo cờ Phật giáo vì mục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
23/03/2011(Xem: 4894)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]