Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Huyền thoại về Ngài Hồ Quán Lãnh Thủy Tổ họ Hồ Đắc

15/06/201105:45(Xem: 5867)
Huyền thoại về Ngài Hồ Quán Lãnh Thủy Tổ họ Hồ Đắc

Hồ Đắc Duy – HUYỀN THOẠI VỀ NGÀI HỒ QUẢN LÃNH THỦY TỔ HỌ HỒ ĐẮC

image005Ngài thủy tổ họ Hồ Đắc làng An Truyển, xã Phú An, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế vốn là gốc từ ngoài bắc vào lập nghiệp thường được dân làng gọi là Hồ Quản Lãnh, ông là người vào miền nam nước Đại Việt ngay từ đầu khi 2 châu Ô Lý của Champa sát nhập vào nước ta vào năm 1307 dưới thời vua Trần Anh Tông, khai khẩn, vỡ đất cùng với những người khác mang họ Huỳnh, họ Nguyễn, họ Đoàn cùng nhau lập thành làng An Truyền.

An Truyền là vùng đất ven đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, là một làng chài lưới chỉ là môt doi đất, một bán đảo lúc đầu khởi nghiệp chỉ dài vài trăm mét về sau nhờ sự bồi lắng lấp đầy phù sa của hạ lưu sông Hương mà càng ngày càng gia tăng diên tích và độ cao.

Trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí đã mô tả địa lý vùng ven biển châu Hóa khá chi tiết, nhất là vùng đầm gồm có phá Tam Giang, đầm Sam, đầm La Bích, đầm Mỹ Á, đầm Tô Đà, đầm An Truyền, đầm Thanh Lam, đầm Võng, đầm Hà Lạc, đầm An Xuân, đầm An Gia, đầm Giáo Liêm, đầm Diêm Hà, đầm Hà Bá, đầm Hà Trung. Cửa biển ăn thông với toàn bộ khu vực đầm phá này, phiá bắc là cửa Eo sau gọi là cửa Thuân An, phía nam là cửa Tư Hiền, từ cửa Thuận An đến cửa Tư Hiền là 77 dặm.

Hiện nay khi quan sát thực địa thì làng An Truyền được bao quanh 3 mặt là đầm phá, phía bắc là đầm An Truyền, phía trước là đầm Thuận An, phía nam là đầm Sam.

Măt trước và mặt phía nam của bán đảo này xuất hiện rất nhiều cồn đất, nhỏ lớn xen nhau có cà vài trăm cái tạo thành môt quần thể cồn. Cồn nổi nhô lên từ dưới nước có khi cao hơn mặt nước 2 đến 3 mét, bản chất của cồn là phù sa tạo nên, đất là đất thịt rất màu mỡ. Các cồn nổi tiếng trong vùng An Truyền là cồn xóm Đồng, cồn Giấy, cồn Theo, cồn Trai, cồn Đá, cồn Nậy…

Trong các cồn thì cồn xóm Đồng có diện tích lớn nhất; cách đây vài thế kỷ trên cồn này có một xóm nhà vài chục nóc gia cư ngụ nhưng về sau vì khó khăn giao thông cách trở đò giang đi lại nên dần dần không còn ai ở đó nữa.

Lăng mộ của ngài thủy tổ họ Hồ Đắc làng An Truyển nằm trên cồn xóm Đồng bên cạnh mộ tổ của họ Huỳnh. Đứng xa 7, 8 km người ta còn thấy rõ 2 trụ biểu vươn cao vút lên trời của lăng ngài thủy tổ họ Hồ Đắc, lăng mộ ngài được xây dựng rất kiên cố, có trụ biểu, có hồ sen, có cầu kiều, có sông bao quanh ngoằn ngoèo uốn lượn, có la thành, có bậc đá đi lên nhà bia, có lối đi xuống hồ sen, bên tả bên hữu đều nghiêm trang thứ tự. Lăng tọa vị theo hướng chính đông, có tả thanh long hữu bạch hổ, có cồn cát vây quanh, có minh đường thủy tụ, trước có biển, sau lại dựa lưng vào núi đúng là một cảnh trí hùng vĩ tuyệt vời hiếm có. Thế đất là vậy, nét phong thủy là vây nhưng đứng lâu nhìn xa mới thấy đươc nét hiền hòa, chất phát của khu lăng mộ ngài thủy tổ họ Hồ Đắc, nó thật vĩ đại cho con cháu nhưng thật là vô cùng khiêm tốn với quốc gia dân tộc. Trời cao đất rộng, bát ngát vùng đầm phá mênh mông phía trước, trùng trùng điệp điệp dãy Trường Sơn vĩ đại sau lưng là một nơi yên nghĩ cho ngài.

image001

 TRỤ BIỂU CỦA LĂNG NGÀI THUY TỔ

 

khai canh, thủy tổ họ Hồ Đắc làng Chuồn này, nơi mà hàng năm trong dip thanh minh tảo mộ giòng họ con cháu đến chiêm bái.

Khi thăm viếng ngôi mộ tổ họ Hồ Đắc, con cháu tinh mắt lắm mới thấy lời di huấn của các bậc tiền nhân để lại cho các hậu duệ nằm tàng ẩn ngủ vùi sau tấm bia, đó là một ấn tộc với chữ:

image002Lăng mộ của ngài thủy tổ họ Hồ Đắc có rất nhiều ẩn số, nếu không phải là con cháu của ngài thì không thể biết được những câu chuyện, những huyền thoại về ngài.

Trên chóp của hai trụ biểu có hình của 2 con vật, nhưng nhìn kỹ bằng ống nhòm thì ngay các chuyên gia thiết kế chuyên xây cất trụ biểu cũng khó lòng mà xác nhận con vật đó là con gì?sư tử cái, con hổ, con báo, con nghê, tỳ hưu hay kỳ lân…? Thông thường người ta dùng Long, kỳ lân, Qui (rùa), phụng (chim), ngư (cá), thiềm thừ (cóc), ngưu (trâu), mãng xà (rắn), sư tử, hổ, báo… tỳ hưu hay các linh vật khác để làm biểu tượng.

Con vật trên 2 trụ biểu của lăng mộ của ngài thủy tổ là một loài linh vật, một con vật huyền thoại của riêng cho giòng họ Hồ Đắc như con Tỳ hưu của hoàng đế Minh Thái Tổ lúc khởi nghiệp, cũng như câu chuyện giữa vua Càn Long và Hòa Thân, hoặc giấc mơ về chữ Phúc của vợ của chúa Nguyễn Hoàng.

 

 

Huyền thoại của ngài thủy tổ khi bắt đầu khởi nghiệp

 Vào năm Đinh Mùi, [Hưng Long] năm thứ 15 (1307), sau khi vua Trần Anh Tông đổi hai châu Ô, Lý thành châu Thuận và châu Hoá, vua sai quan Hành khiển Đoàn Nhữ Hài vào trấn nhậm miền đất mới. Có rất nhiều cư dân người Viêt muốn vào vùng đất mới để lập nghiệp. Theo đoàn di dân bằng đường biển có một chàng thanh niên họ Hồ khỏe mạnh với một ít dụng cụ dao, rựa, cuốc, xẻng và một chú chó mang theo. Chỉ sau vài ngày vượt biển họ đến cửa Eo tức là cửa Thuận An ngày nay, ở đây là một vùng đầm phá rộng lớn đất đai phì nhiêu, tôm cá nhiều không kể xiết, một thiên đàng lý tưởng cho những người di dân. Họ cắm lều đóng cọc và định cư ngay ven bờ đầm phá nơi họ vừa mới đến. Một khu vực rộng lớn được khai hoang dọc theo bờ nam của Linh Giang nay là cửa sông Hương đổ vào hệ thống Phá Tam Giang – Cầu Hai.

Sau 2 năm khai phá không mệt mỏi, như mọi ngày khi hai thầy trò, chàng thanh niên họ Hồ và chú chó tinh khôn trở về túp lều, thường lệ khi về đến nhà là chú chó biến mất vào rừng ngay còn chàng thanh niên nhóm bếp nấu cơm. Chỉ một thoáng sau chú chó tha về có khi là một con chồn, khi thì con thỏ rừng, khi thì một con cá. Có một ngày, đợi lâu quá không thấy chú chó trở về, chàng thanh niên bèn đi vào rừng tìm con vật thân yêu và gọi nó, hôm đó con chó mang về một con nhím to tướng nhưng lông nó ướt sũng. Hai thầy trò được một bữa ăn uống no nê, và kể từ hôm đó về sau, chiếu tối nào chú chó cũng về muộn, lông nó cũng ướt sũng, chàng trai lấy làm lạ. Bỗng một hôm chú chó cắn tay áo và kéo chàng trai đi sâu vào khu rừng về phía nam chừng 2 dặm, cây cối thưa dần, chú chó chợt biến mất; chàng thanh niên đi theo tiếng chó sủa vẳng lại và chợt trước mặt hiện ra một vũng nước rất lớn, con chó cúi đầu xuống uống một cách ngon lành, chàng nếm thử, nước ngọt lịm thơm thoang thoảng mùi Thủy xương bồ, một loại cây thường mọc ở đầm lầy. Thật là kì diệu, một ao nước ngọt giữa một vùng đầm lầy chung quanh nước mặn!

 

 image003

LINH VẬT TRÊN TRỤ BIỂU

Trở về căn lều, gác tay lên trán, trong giấc mơ có môt vị thần to lớn hiện ra nói với chàng: “Ta ban nhà ngươi một mảnh đất trù phú để cho ngươi và con cháu đời đời an nghiệp. Chàng nghĩ “không lẽ chỉ có một mình và con cháu ta hưởng ơn phúc của trời cho này hay sao?”

Chàng đem câu chuyện này kể cho mọi người biết và con chó hướng dẫn những di dân đi theo đến vũng nước ngọt kỳ diệu nơi trời đã ban cho chàng. Chàng trai tốt bụng mời mọi người cùng đến đây lập cư và chia sẻ ơn phúc của trời đã ban cho.

Làng An Truyền được thành lập kể từ ngày đó và cái tên An Truyền chính là “Đất của sự bình an được thượng đế ban cho và truyền đời cho các con cháu mai sau”.

Dấu tích của vũng nước ngọt hiện nay vẫn còn ở cồn xóm Đồng, nằm gần bên lăng mộ của chàng trai tốt bụng. Trong Đai Việt Sử Ký toàn thư có ghi năm Giáp Thân (1404) Cửa Eo ở Hóa Châu bị vỡ, chính trong cơn lụt khủng khiếp này vũng nước kì diệu đó bị lấp đầy do phù sa từ dãy Trường Sơn tràn về, nước lũ xoáy mòn chia cắt các cồn với nhau tạo thành quần thể các cồn như hiện nay. Người ta đào 3 cái giếng ngay trên vũng nước cũ, đó là những giếng nước ngot độc nhất trong vùng để dùng. Mãi đến cuối thế kỷ 17 đầu thế kỳ 18 khi ông Hồ Đắc Dương khai thông đường thủy dẫn nước ngọt từ sông Hương vào cho làng An Truyền thì người dân An Truyên mới không còn tùy thuộc dòng nước ngọt, vì muốn đem nước từ cồn xóm Đồng vào đất liền rất vất vả.

Linh vật trên trụ biểu : Người bạn đồng hành với chàng trai họ Hồ cũng là bạn trung thành, kẻ bảo vệ tuyệt vời khôn ngoan nhanh nhẹn, chú chó tinh khôn luôn luôn đi theo bên cạnh chủ nhân nó như bóng với hình, nó ngăn cản một cách dũng cảm trước bầy sói rừng, nó đã từng làm chồn bước mãnh hổ hay cá sáu tấn công chàng trai…nó mang lại thức ăn cho cả nhà và canh giữ một cách nghiêm nhặt kẻ lạ vào lãnh địa của chàng trai.. nó là một con vật thông minh trung thành và tận tụy có nghĩa với chủ nhân.

Mấy chục năm sau khi chàng trai qua đời, con chó già cổi phủ phục bên xác chủ nhân, mấy tháng sau nó cũng chêt theo.

Chàng trai tốt bụng được vua ban cho chức Quản Lãnh vì lòng tốt, vì biết chia xẻ hạnh phúc của mình cho người khác, vì biết đoàn kết gắn bó với các họ tộc trong vùng.

 

 

image004

SẮC MỆNH CHI BẢO

Các hậu duệ của người khai canh vùng đất này vừa là thủy tổ của họ Hồ Đắc đã xây dựng nên khu lăng mộ để tưởng niệm những cống hiến của ngài cho đất nước cho giòng họ của mình bền vững mãi mãi, họ đã không quên con vật thân yêu của chàng trai họ Hồ và dấu ấn trên tấm bia đá trước lăng mộ ngài.

 

 

 

 image005

LĂNG NGÀI THỦY TỔ HỌ HỒ ĐẮC

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/06/2011(Xem: 3550)
Chùa Báo Thiên và tháp Đại Thắng Tư Thiên là do vua Lý Thánh Tông đứng ra chủ trì việc xây dựng. Nói cách khác là do nhà nước đứng ra làm “chủ đầu tư” theo cách nói hiện nay. Chùa và tháp là hai biểu tượng của Phật giáo, nhưng do là một người theo Phật, vua đã cho xây chùa năm 1056 và dựng tháp năm 1057.
13/06/2011(Xem: 12960)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
10/06/2011(Xem: 5141)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
31/05/2011(Xem: 21812)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
26/05/2011(Xem: 2566)
Lý Thần Tông kiếp trước là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Lý Thần Tông tên thật là Lý Dương Hoán, con của Sùng Hiền Hầu (em ruột Lý Nhân Tông), được Lý Nhân Tông nhận làm con nuôi rồi truyền ngôi cho năm Đinh Mùi (1127). Sách Đại Việt sử lược cho biết vua Lý Thần Tông chính là hiện thân kiếp sau của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Từ Đạo Hạnh tên thật là Từ Lộ, ông bị Lý Nhân Tông bắt tội khi yểm bùa trong lễ cầu thác sinh có con của vua. Lúc đó Sùng Hiền Hầu đi qua, Từ Lộ đề nghị cứu giúp, “ngày sau xin ngụ thai trong cung để báo đáp công đức này”.
25/05/2011(Xem: 5364)
“Uống nước nhớ nguồn”, đó là lẽ thường tình của con người, huống hồ là Phật tử. Hôm nay hàng Phật-tử chúng ta đang sống trong hào quang tươi sáng của Phật, trong một tổ chức có quy-mô, trong một đường lối giáo dục có phương pháp và trong một tinh-thần thống nhất ý chí-hành động. Đó là nhờ sự gắng công thường xuyên, ý chí bất khuất của các bậc Tiền-Bối trong Phong trào Chấn Hưng Phật-giáo Việt-Nam, 50 năm về trước, của 3 miền Nam, Trung, Bắc.
09/05/2011(Xem: 5789)
Gan lam Truong Sa - Minh Hue. Gần lắm Trường Sa - Minh Huệ. Trích: Xuân Trường Sa 2014. VTV1 ngày 08-03-2014. GẦN LẮM TRƯỜNG SA Mỗi cánh thư về từ đảo xa, Anh thường nói rằng Trường Sa lắm xa xôi. Nơi anh đóng quân là một vùng đảo nhỏ, bên đồng đội yêu thương. Chỉ có loài chim biển, sóng vỗ điệp trùng quanh ghềnh trúc san hô. Trường Sa ơi, biên đảo quê hương, đôi mắt biên cương, vẫn sáng long lanh giữa sóng cuồng bão dập, đảo quê hương. Anh vẫn đêm ngày giữa biển khơi, thương nhớ sao nguôi ngươi chiến sĩ Trường Sa ơi. Không xa đâu Trường Sa ơi, không xa đâu Trường Sa ơi. Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em. Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh. Mong cánh thư về từ đảo xa, Nơi thành phố này, Trường Sa mãi bên em. Anh ơi có nghe lời người từ phố biển, khi ngọn triều dâng cao. Khi cánh Hải âu về, khi nắng sang mùa, nơi đảo trúc san hô. Chiều Nha Trang, sao bỗng bâng khuâng, như thấy anh đang, sừng sững kiên trung giữa pháo đài giữ đảo. Trường Sa ơi. Trông
27/04/2011(Xem: 4158)
Tôi treo cờ Phật giáo vì mục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
23/03/2011(Xem: 4325)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
22/03/2011(Xem: 4932)
Cuối 1973, tuy xuất gia đã 10 năm, tương chao đã thấm tận vào máu tủy, lại chuẩn bị làm sinh viên Cao Đẳng Phật Học Hải Đức, chúng tôi đúng tuổi phải bị VNCH gọi động viên phải đi lính [ai xúi Thiệu ra lệnh TT Đạm hăm ngưng cấp hoãn dịch tu sỹ?] Chính thời điểm 1973-4 lúc ĐĐ Liễu Minh nói bài nầy, ngài 40 tuổi, trong tinh thần lên án chống lại chế độ VNCH khi họ rục rịch ban hành Luật Tổng Động Viên, không cho ai được hoãn dịch kể cả Tu sỹ PG.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567