Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời bạt

31/05/201114:43(Xem: 9973)
Lời bạt

AM MÂY NGỦ
Truyện Ngoại Sử của Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản, Paris 1982

LỜI BẠT

Am Mây Ngủ tuy là một truyện ngoại sử nhưng nó không có tính cách truyện giả sử mà trái lại rất gần với chính sử. Năm tháng và những dữ kiện lịch sử trong truyện đều phù hợp với chính sử. Sách Tam Tổ Thực Lục mà tác giả sử dụng đã bổ khuyết được nhiều cho các bộ quốc sử và đính chính lại những điểm ghi chép sai lầm trong các bộ này.

Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nói rằng: "vua Chế Mân băng vào tháng năm năm Đinh Mùi, và mãi đến tháng mười năm ấy quan Thượng Thư Tả Bộc Xa là Trần Khắc Chung và quan An Phủ Sứ Đặng Vân mới khởi hành qua Chiêm để đón công chúa và thế tử Đa Gia về, bởi vì theo tục nước Chiêm Thành, hễ vua chết thì hoàng hậu phải lên hỏa đàn chết theo". Thực ra, hỏa đàn của vua theo đúng tục lệ Chiêm Thành, được tổ chức bảy ngày sau khi vua băng. Khởi hành từ Thăng Long vào tháng mười một, như vậy là đã hơn sáu tháng trôi qua ngày vua lên đàn hỏa. Người Chiêm đã để cho Huyền Trân sống cho tới ngày sứ giả Đại Việt qua tới, điều đó chỉ có thể giải thích bằng thái độ e dè của người Chiêm không muốn gây nỗi bất bình với vua Đại Việt. Khi người Đại Việt cướp công chúa về, không phải là người Chiêm không đuổi theo bắt lại được. Họ là những thủy thủ rất thiện nghệ. Nhưng họ đã để cho công chúa đi thoát. Những dữ kiện trên đáng làm cho ta suy nghĩ.

Thái tử Chế Đa Gia nhất định là con của công chúa Huyền Trân, nếu không thì tại sao vua Đại Việt ra lệnh cho Trần Khắc Chung và Đạng Vân đón thái tử về cùng với công chúa? Nhưng người Chiêm đã cố tình giữ thái tử Chế Đa Gia lại, vì thái tử là thuộc về dòng họ của vương quốc Chiêm Thành. Vì lẽ đó mà các quan đã không bắt theo được thái tử Chế Đa Gia.

Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có thể nói đến vụ Trần Khắc Chung "tư thông vói công chúa rồi loay hoay ở đường biển lâu ngày mới về đến kinh sư". Vụ này có thể là do miệng lưỡi xấu xa thêu dệt. Trần Khắc Chung đâu phải đi Chiêm một mình. Bên cạnh ông còn có quan An Phủ Sứ Đặng Vân và cả một thủy thủ đoàn mà ta biết chắc là đông đảo.

Sách Đại Việt Sử Ký lại còn nói rằng sau khi Trúc Lâm đại sĩ mất, trong triều đình có người xin vua làm tội thiền sư Pháp Loa, vì thiền sư đã dám làm lễ hỏa thiêu Thượng hoàng mà không cho vua và triều thần hay biết. Thực ra, người đứng ra dựng hỏa đàn là thiền sư Bảo Sát. Lễ khai hỏa đàn cử hành đêm mồng hai tháng mười một mà tới ngày mồng bốn thiền sư Pháp Loa mới lên tới núi Yên Tử. Nếu bắt tội thì bắt tội Bảo Sát chứ sao lại bắt tội Pháp Loa. Sách Tam Tổ Thực Lục cho ta biết chính Trúc Lâm di chúc cho Bảo Sát làm lễ hỏa táng ngài ngay tại am Ngọa Vân trước khi báo tin về triều đình biết.

Sách Tam Tổ Thực Lục nói rằng khi vua Nhân Tông mới sinh, sắc mặt vàng như hoàng kim, nên vua Thánh Tông yêu quý gọi thái tử là "Kim Phật". Tác giả sách Đại Việt Sử Ký, một nhà Nho không ưa Phật, nói rằng "Ở trong hai cung, mọi người gọi thái tử là "kim tiền đồng tử". Những chi tiết như vậy, tuy nhỏ nhặt, cũng làm giảm đi ít nhiều giá trị của bộ sử.

Tác giả Truyện Am Mây Ngủ chưa được viếng núi Hổ Sơn, chỉ nhờ đọc sách Đại nam Nhất Thống Chí cho nên biết được rằng công chúa Huyền Trân sau khi về nước đã lên tu ở đây, và nhờ đọc bài L'Inscription Chame de Po Sah của E. Aymoneir (Bull Comm. Archeol, Indochine 1911) cho nên biết được rằng hồi mới về Chiêm, công chúa được vua Chế Mân ban hiệu là Paramesevari và việc này đã được khắc vào bia Po Sah.

Trúc Lâm đại sĩ và công chúa Huyền Trân đã "lỡ" thương người Chàm cho nên mới muốn sống hòa bình với dân tộc Chàm. Vì thương, họ đã mở rộng trái tim để đón nhận một dân tộc anh em. Cái ta nhỏ hẹp trở thành cái ta rộng lớn.

Ai mà không muốn cho các dân tộc Đông Dương sống với nhau như anh em một nhà. Nhưng vũ lực không chinh phục được tình huynh đệ. Chỉ có lòng thương mới chinh phục được tình huynh đệ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/03/2011(Xem: 4942)
Cuối 1973, tuy xuất gia đã 10 năm, tương chao đã thấm tận vào máu tủy, lại chuẩn bị làm sinh viên Cao Đẳng Phật Học Hải Đức, chúng tôi đúng tuổi phải bị VNCH gọi động viên phải đi lính [ai xúi Thiệu ra lệnh TT Đạm hăm ngưng cấp hoãn dịch tu sỹ?] Chính thời điểm 1973-4 lúc ĐĐ Liễu Minh nói bài nầy, ngài 40 tuổi, trong tinh thần lên án chống lại chế độ VNCH khi họ rục rịch ban hành Luật Tổng Động Viên, không cho ai được hoãn dịch kể cả Tu sỹ PG.
01/01/2011(Xem: 4411)
Hôm nay là 30-4, ngày kỷ niệm chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Năm ngoái, anh đã có một bài trò chuyện với VietnamNet. Năm nay, chúng tôi cũng mời anh tiếp tục chuyện trò như thế, không phải vì một mục tiêu chính trị nào, mà để góp phần vào việc nghiên cứu nghiêm túc các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam cũ, nghiên cứu sử hiện đại. Đề nghị anh nói về phong trào Phật giáo, tuy biết anh rất ngần ngại. Tại sao anh ngần ngại?
25/12/2010(Xem: 8046)
Phật giáo là một tôn giáo được đức Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TCN. Do đạo Phật được truyền đi trong một hơn hay 2500 năm và lan ra nhiều nơi cho nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của nó khá đa dạng về các bộ phái cũng như là các nghi thức và phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, đức Thích Ca, người truyền đạo Phật, đã thiết lập được một giáo hội với các luật lệ hoạt động chặt chẽ của nó. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với các hoàn cảnh chế độ xã hội, con người, và tập tục ở các thời kỳ khác nhau, nên ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
24/12/2010(Xem: 4491)
Phật giáo Việt-Nam trải qua nhiều bước thăng trầm. Đời Lý, Trần Phật giáo cực thịnh, là quốc đạo. Triều Lê Phật giáo bắt đầu suy vi. Đến triều Nguyễn Phật giáo sa sút, mất hẳn vị trí trong chính trị văn hóa và xã hội ở Việt-Nam.
24/12/2010(Xem: 5437)
Nếu ta dở bản đồ thế giới, ta sẽ thấy Á Châu chiếm một vùng đất mênh mông hình mặt trăng lưỡi liềm, hai đầu chỉa về hướng bắc, vòng trong đi theo duyên hải Biển Bắc Cực của xứ Scandinavia và Tây Bá Lợi Á. Vòng ngoài từ đông sang tây là bờ biển Thái Bình Dương Tây Bá Lợi Á qua Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, bán đảo lục địa Ấn Độ, Iran, Tiểu Tế Á đến Âu Châu. Giáp ranh vòng ngoài của mặt trăng lưỡi liềm ấy, tại nhiều nơi, nhưng đứng ngoài, ta thấy các nước Ả Rập, Phi Châu và Mỹ Châu.
18/12/2010(Xem: 14781)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minh và dịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
14/12/2010(Xem: 16503)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập.
25/11/2010(Xem: 23415)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
15/11/2010(Xem: 6627)
Năm 938 Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng kết thúc 1000 năm Bắc thuộc, bắt đầu thời kì tự chủ tiến tới xây dựng nền độc lập cho nước ta. Tuy nhiên tinh thần độc lập của nước Việt không phải bắt đầu từ sau chiến thắng ấy, mà nó đã tồn tại trong suốt thời gian Bắc thuộc, được thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa của bà Trưng, bà Triệu cho đến Phùng Hưng, rõ ràng tinh thần quyết dành độc lập của dân Việt luôn được nuôi dưỡng, chắn chắn đó là đề tài luôn được người dân Việt bàn bạc sau lũy tre làng, trên những cánh đồng hay trong những câu chuyện đêm đêm bên bếp lửa. Tuy nhiên do chưa có một nhà nước để thống nhất các lực lượng, nên đã có nhiều nhóm hoạt động chứ không phải chỉ có phe nhóm của Ngô Quyền,
06/11/2010(Xem: 10108)
Ngày20 tháng tư nhuận năm Quí Mão(11/6/1963) trong một cuộc diễnhành của trên 800 vị Thượng Tọa, Ðại đức Tăng, Ni đểtranh đấu cho chính sách bình đẳng Tôn giáo, cho lá cờ quốctế không bị triệt hạ: tại ngã tư đường Phan Ðình Phùng,Lê Văn Duyệt ( Sài Gòn), lúc 9 giờ sáng, Hòa Thượng QuảngÐức phát nguyện tự tay châm lửa thiêu thân làm ngọn đuốc“ thức tỉnh” những ai manh tâm phá hoại Phật giáo. Dướiđây là tiếng nói tâm huyết cuối cùng của Ngài gửi lạicho đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567