Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sự kiện Phật Giáo năm 1963

18/05/201321:47(Xem: 3173)
Sự kiện Phật Giáo năm 1963

botatquangduc



SỰ KIỆN PHẬT GIÁO NĂM 1963

Tỳ Kheo Nguyên Các


Lịch sử Phật giáo Việt nam, từ ngày du nhập vào đến nay, có thể nói giai đoạn những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước, là khoảng thời gian gian nan nhất, có nguy cơ bị loại khỏi dòng chảy văn hóa Việt; đồng thời cũng là dịp “thử lửa” Phật giáo Việt nam.

Theo “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận” tập III của Nguyễn Lang, “Đạo Phật Và Dòng Sử Việt” tác giả Hòa thượng Thích Đức Nhuận, “Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử” của Tuệ Giác .v.v. Chúng ta thấy, dưới sự độc tài, kỳ thị tôn giáo của gia đình họ Ngô, mà Phật giáo việt nam, với hơn hai ngàn năm đồng hành cùng dân tộc Việt, có thể bị xóa tên trên bản đồ văn hóa Việt Nam. Bernard Newman đã viết trong "Background to Vietnam" rằng: ...Ngày tháng qua, cách cai trị của Diệm càng ngày càng trở nên không thể chịu được, và tới năm 1963, Ông ta là một nhà độc tài hoàn toàn, chỉ nghe lời người thân trong gia đình. Ông ta hoàn toàn xa rời với quần chúng. Người ta phàn nàn là ông ta đã trao những chức vụ quan trọng nhất cho người Công giáo: nhưng những người Công giáo là “người ngoại quốc” – những người di cư từ ngoài Bắc vào. Sự bất mãn đưa đến phong trào chính trị của Phật Giáo.

(...With the passing months Diem's attitude became more intolerable, and by 1963 he was the complete dictator, seeking advice only from his immediate relatives. He was completely aloof from the common people. It was complained that he gave all the best posts and showed all the favor to Catholics: but the Catholics were "foreigners" - refugees from the North Vietnam. The resentment brought about the rise of a Buddhist political movement.)[1]

Đúng vậy, một tôn giáo mà trong suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển, chưa một lần vì mục đích truyền giáo mà ngây nên đấu tranh, nhưng vì mục đích bảo vệ chân lý, bảo vệ lợi ích chân chính của dân tộc, đã từng một lần đứng lên vận động chống chế độ độc tài ông Ngô Đình Diệm.

Các cuộc diễu hành, biểu tình, tuyệt thực.v.v. năm 1963 của Phật tử Việt nam “không xuất phát từ sự tranh chấp giữa người Phật giáo và người Công giáo[2]. Mà chỉ nhằm chống lại những chích sách kỳ thị, có mục đích hạ huy tín đạo Phật của chính quyền ông Ngô Đình Diệm. Từ khi lên cầm quyền, chính quyền nhà Ngô đã ra sức chèn ép các tổ chức Phật giáo, buộc tín đồ đạo Phật bỏ đạo để theo công giáo, nếu không sẽ làm cho họ mất công ăn việc làm, hoặc nếu ai chống lại tới cùng thì vu khống buộc tội, cho vào trại cải huấn. Cứ thế từ năm 1954, Phật giáo đồ âm thầm chịu đựng. Phật đản năm 1963, không chỉ là những sự chèn ép nhỏ lẻ cá nhân hoặc từng gia đình nữa, mà chính quyền đã dùng vũ lực đàn áp tín đồ Phật giáo, và người dân vô tội. Tám người chết, và rất nhiều người bị thương nặng trong cuộc tàn sát quần chúng nhân dân, tín đồ Phật tử trước đài phát thanh Huế, do lực lượng quân đội, công an chính quyền Ngô Đình Diệm ngây ra vào đêm ngày rằm tháng tư âm lịch. Đồng thời với việc công bố lệnh cấm tụ tập nơi công cộng…Dù bị dùng vũ trang đàn áp, nhưng Phật giáo đồ, vẫn đúng tinh thần Phật giáo, đấu tranh theo đường lối bất bạo động. Tăng tục sẵn sàng hy sinh, lấy sức mạnh đó rung động lòng người.

Cuộc vận động này, không chỉ có Phật giáo đồ, mà còn có sự ủng hộ của nhiều thành phần khác trong nước cũng như trên thế giới. Họ đại diện cho những người có óc phân tích, biết phên phán công chính, và có dũng khí để chống lại những gì trái với lương tri con người, ngược với truyền thông văn hóa dân tộc, và không phù hợp với xu thế hướng đến bình đẳng, hòa bình của nhân loại. Cuộc vận động đã thành công, đánh dấu bằng việc kết thúc chín năm cầm quyền, của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm ở miền nam Việt nam, từ 1954 đến 1963.

Có người nói, đạo Phật là đạo từ bi, vì hòa bình, sao lại thực hiện cuộc vận động phản đối chính quyền nhà Ngô như thế? Đúng vậy. Đạo Phật lấy từ bi làm căn bản trong đối đãi. Nhưng tình thương ấy phải trên cơ sở của trí tuệ, vì nếu không sáng xuốt trong thể hiện tình yêu thương sẽ chỉ gây thêm đau khổ, chứ không chuyển tải được an lạc, hòa bình đến mọi loại chúng sanh. Cũng vậy, sự chèn ép, những phi vụ phi nhân quyền, kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm, chỉ nhằm mục đích trục lợi cho một nhóm người. Mà đã ngoài mục đích an dân lạc quốc, thì những chính sách, những cuộc đàn áp, ép buộc người dân cải đạo, bắt bớ, tra tấn, tù đầy Tăng, Ni, sinh viên, học sinh v..v.., đi đến cao điểm là đồng loạt tấn công chùa chiền trên khắp nước ngày 21 tháng 8, 1963, bắt bớ và giết hại hàng ngàn Tăng, Ni, Phật tử, đều là phi nghĩa. Trước những hành động vô nhân đạo ấy, mà đối tượng chịu khổ đau, sống đời sống bất an, niềm tin không chỗ báo víu là người dân vô tội. Vậy, hành động phản đối một nhóm người (lợi ích nhóm), chủ trương tiêu diệt Phật Giáo để “Công giáo hóa” miền Nam; cầu đem lại bình an cho nhân dân, hòa bình cho xã hội, duy trì nền văn hóa ngàn năm của dân tộc. Bên nào nặng hơi.?

Cuộc chiến nào, dù là theo nguyên tắc bất bạo động, nhưng chắc chắn có sự hy sinh. Bao con người đã ngã xuống, với tấm lòng vì đạo vì dân, trông các cuộc biểu tình, tuyệt thực tập thể. Thế nhưng, những hoạt động ấy vẫn không làm chính quyền có sự nhìn nhận lại chính sách của họ. Nên, tăng ni Phật tử, nguyện biến thân mình làm đuốc sáng, để ánh sáng từ tâm, chiếu sâu vào tận cùng phần tâm hồn tối tăm của con người. Với bao bức tâm thư để lại, đều thể hiện mong muốn chấm dứt tình trạng đàn áp Phật giáo, đất nước thanh bình, quốc dân an lạc, Phật giáo trường tồn. Sử sách ghi nhận được: Ngọn lửa Nguyên Hương trước tỉnh đường Bình Thuận (Phan Thiết), ngọn lửa Thanh Duệ nơi chùa Phước Duyên tỉnh Thừa Thiên, ngọn lửa Diệu Quang tại Ninh Hòa Nha Trang, ngọn lửa Tiêu Diêu tại chùa Từ Đàm (Huế), ngọn lửa Quảng Hương cháy lên trước chợ Bến Thành Sài gòn, ngọn lửa Thiện Mỹ bùng cháy trước nhà thờ Đức Bà Sài gòn. Và, các em thanh thiếu niên Phật tử, dẫu trăng mười sáu đang chờ, một lòng vì đạo em thời hy sinh, có thể kể đến Quách Thị Trang, Hồ Thị Mùi, Trần Du, Hoàng Tuyết, Đặng Văn Công, Huyền Tôn Nữ Tuyết Hoa, Lê Thị Kim Anh, Nguyễn Thị Phúc.v.v.

Đỉnh điểm là, “trước con mắt ngạc nhiên của những ký giả và nhiếp ảnh gia quốc tế”[3],ánh đuốc Quảng Đức bừng sáng. Vạn người kính cẩn xót thương. Ánh sáng của trí tuệ Phật giáo, tình thương dân tộc bao la đã chấn động thế giới. Thế giới như dồn mọi cự chú ý về phía trời Việt nam, khi hình ảnh, tin tức hòa trượng Quảng Đức tự thiêu chiếm hết các kênh truyền hình, đài phát thanh. Trang nhất các nhật báo lớn trong nước cúng như trên thế giới đều đăng hình Hòa Thượng tự thiêu ở trang đầu với tiêu đề lớn. Ai xem, nghe được tin đều không thể thờ ơ, hững hờ về công cuộc đấu tranh của Phật tử Việt nam. Bên cạnh đó, sự đoàn kết của các tổ chức Phật giáo, tăng ni Phật tử một lòng, công cuộc đòi lại bình đẳng, vị thế của Phật giáo trong lòng dân tộc đã thành công. Dẫu phải trải bao khó khăn, mất mát, hy sinh…!

Sự hy sinh của chư tăng ni Phật tử trong công cuộc đấu tranh là không gì bù đắp được, thế nhưng, đổi lại, Phật giáo Việt nam thoát được cảnh kỳ thị, dân tộc Việt nam còn đó nền văn hóa cho muôn đời, nhân dân thời kỳ đó có được cuộc sống bình an. Lịch sử Phật giáo Việt nam lại thêm một trang vàng. Nơi đây, xin kính cẩn nghiêng mình tưởng niệm, tri ân, chư anh linh đã vì dân tộc vì đạo Pháp mà quên thân. Nguyện cầu Tam Bảo gia ân, Hồn nương tịnh cảnh, Ta Bà hết đau.

Vĩnh Nghiêm, Phật Đản PL. 2557

Nguồn: Tri Thức Phật Giáo số 08


[1]Bernard Newman. "Background to Vietnam" . Signet Books, New York 1965, p. 117.

[2]Nguyễn Lang. “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập III”. NXB Văn Học, HN 1994, p. 375.

[3]Nguyễn Lang. “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập III”. NXB Văn Học, HN 1994, p. 413.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 3536)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
07/07/2011(Xem: 28357)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 8450)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 3549)
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ? Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu, tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.
23/06/2011(Xem: 4283)
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo. Từ phương Bắc, Trung Quốc đã tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lãnh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống còn và giữ gìn sự độc lập của mình, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo ...
20/06/2011(Xem: 7305)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 4895)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
16/06/2011(Xem: 14186)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
15/06/2011(Xem: 5895)
Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
15/06/2011(Xem: 2560)
1. Tín-ngưỡng ở Giao-châu Trước khi các tông-giáo tràn vào, người Việt chắc đã tôn-sùng những mãnh-lực thiên-nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di-tích còn lại không những ở trong tập-tục của dân-gian, mà trong điển-lệ tế-tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc-tích từ đâu tới. Thần Cao-sơnchắc cũng là đức-thánh Tản-viên, thần Long-thủy có lẽ gốc ở thác Bờ. Lại như các đền hay "chùa" Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điệnhẳn là di-tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567