Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phóng viên ghi lại hình ảnh HT. Thích Quảng Đức tự thiêu vừa qua đời

15/01/201311:50(Xem: 6898)
Phóng viên ghi lại hình ảnh HT. Thích Quảng Đức tự thiêu vừa qua đời
Malcolm-browne
Phóng viên ghi lại hình ảnh
HT. Thích Quảng Đức tự thiêu
vừa qua đời
Đào Văn Bình dịch

NEW YORK (AP) – Điện thoại gọi đi từ Chùa Xá Lợi tới một số phóng viên có chọn lựa của các hãng thông tấn ngoại quốc cho biết : “Ngay mai, tại nơi đó sẽ có một diễn biến rất quan trọng xảy ra.” Ngày hôm sau 11 tháng 6, 1963 một vị cao tăng tên Thích Quảng Đức khoác áo nâu sồng, chân đi dép, ngồi thế hoa sen (kiết già) trên tấm nệm tại ngã tư đã được tăng ni phong tỏa. Những người phụ tá đã giúp đổ xăng trên người sư và sư bình thản bật lửa thiêu đốt thân hình.

Trong số phóng viên được báo động về cuộc phản đối chính trị rúng động chống lại chính quyền Miền Nam do Mỹ hỗ trợ - chỉ có một phóng viên duy nhất của AP (Associates Press) có mặt, đó là Malcolm Browne. Tấm hình mà Malcolm Browne chụp đã xuất hiện trên trang nhất toàn thế giới khiến Tòa Bạch Ốc rùng mình và TổngThống Kennedy đã phải ra lệnh tái lượng giá chính sách đối với Việt Nam và chỉ thị Đại Sứ Henry Cabot Lodge sắp qua nhận nhiệm sở ở Sài Gòn “ Chúng ta phải làm một cái gì đó đối với chế độ này.”

Malcolm Browne mất vào Thứ Hai tại bệnh viện New Hampshire thọ 81 tuổi nhớ lại cuộc phỏng vấn năm 1998 đã nói rằng …đây là khởi đầu của sự nổi dậy (đảo chính) đưa tới việc chính quyền của TT. Ngô Đình Diệm được Mỹ hỗ trợ bị lật đổ, sát hại cùng với người em là Ngô Đình Nhu - cố vấn an ninh quốc gia. Trong cuộc phỏng vấn ông nói “Ngay lập tức, những cuộc biểu tình khổng lồ xuất hiện, không phải chỉ giới hạn trong hàng ngũ tăng ni mà còn lôi kéo số lượng lớn lao người dân bình thường ở Sài Gòn.

Malcolm Browne nhuốm bệnh Parkinsonnăm 2000 và trong những năm cuối cùng đã phải ngồi xe lăn để di chuyển. Bà vợ ông là Le Lieu Browne cư ngụ tại Thetford, Vermont cho biết gia đình phải gấp chở ông vào bệnh viện hôm Thứ Hai sau khi ông bị chứng khó thở. Trong bốn thập niên - phần lớn là phóng viên chiến trường, Malcolm Browne đã dành 30 năm để làm việc cho tờ New York Times. Ông kể lại, ông đã ba lần thoát chết trên máy bay chiến đấu, đã từng bị năm, sáu quốc gia trục xuất và bị ghi vào danh sách bị thủ tiêu/ám sát (death list) của Sài Gòn.

Năm 1964, lúc bấy giờ là phóng viên của AP, cùng với đối thủ là David Halberstam của tờ Times hai người cùng đoạt giải thưởng Pulitzer về những bài phóng sự chiến tranh Việt Nam. Cuộc chiến đã leo thang vì cuộc đảo chính 1/11/1963 sát hại Diệm. Kế hoạch đảo chính do một nhóm tướng lãnh chủ mưu với sự ngầm chấp thuận của Hoa Kỳ - một phần do những cuộc chống đối chính quyền thiên vị Thiên Chúa Giáo (pro-Cahtolic) của Diệm do Phật Giáo phát khởi. Những cuộc chống đối này đã khiến thế giới chú ý khi nhà sư châm lửa tự thiêu trước sự chứng kiến của 500 tăng ni. Hinh ảnh nhà sư tĩnh tọa trong biển lửa đã trở thành những tấm ảnh điển hình mới của chiến tranh Việt Nam. Bà Kathleen Carroll - chủ bút và cũng là phó chủ tịch AP nói rằng, “Malcolm Browne là phóng viên cừ khôi và rất chân thật.” Malcolm Browne sinh ngày 17/4/1931 tại New York. Ông tốt nghiệp cử nhân hóa học tại Swarthmore College, Pensylvania. Ông làm việc tại phòng thí nghiệm khi thi hành quân dịch năm 1956, rồi được gửi tới Triều Tiên làm lính lái xe tăng, nhưng tình cờ viết bài cho một tờ báo quân đội, từ đó ông quyết định từ giã đời khoa học, chuyển sang đời ký giả. Đầu tiên ông làm việc cho tờ Middletown Daily Record ở New York và làm việc chung với Hunter S. Thompson là tác giả của thiên phóng sự "Fear and Loathing in Las Vegas." Rồi ông làm việc một thời gian ngắn cho International News Service và United Press - tiền thân của United Press Intenational - trước khi đầu quân cho AP vào năm 1960. Năm sau, AP chuyển ông từ Baltimore qua Sài Gòn để điều hành văn phòng mới mở thêm này. Tại đây ông trở thành hội viên sáng lập của nhóm phóng viên chuyên loan tin về cuộc chiến tranh tại Nam Việt Nam do Mỹ hỗ trợ để chống lại Việt Cộng – những người cộng sản nổi dậy chống chính phủ.

malcolm-browne_14

Malcolm Wilde Browne thời trẻ

Trong năm, có thêm nhiếp ảnh gia Horst Faas và phóng viên Peter Arnett cùng tham gia với ông. Vào năm 1966, bộ ba này đã được các đối thủ của AP gọi là “đợt sóng người” (human wave) thi nhau đoạt giải Pulitzer- một trong những giải thưởng cao quý của nhà báo tường trình về Chiến Tranh Việt Nam. Viết về nạn tham nhũng và yếu kém (incompetence) của quân đội Miền Nam, nhóm ký giả này bao gồm Halberstam của Times, Neil Sheehan của UPI, Charles Mohmor của Times Magazine, Nick Tuner của Reuters và những ký giả khác đã bị Nam Việt Nam và Washington kết tội “làm lợi cho cộng sản”.

Trong một buổi tường trình tin tức, việc Malcolm Brownne cứ lập đi lập lại câu hỏi khiến một sĩ quan Mỹ cáu tiết nói, “"Browne, why don't you get on the team?"(*) Lúc đầu, giống như những bạn đồng nghiệp khác, Malcolm Browne coi việc Hoa Kỳ cam kết giúp đỡ chính quyền Sài Gòn đang bị bao vây là hợp lý (reasonable idea). Trong cuốn hồi ký viết năm 1993 nhan đề "Muddy Boots and Red Socks " ông nói, “không tới Việt Nam hàm chứa sự chống đối vai trò của Hoa Kỳ trong cuộc nội chiến tại Việt Nam” nhưng rồi ảo tưởng này/ ý nghĩ này ta vỡ khi bộ tham mưu của Kennedy tiến hành “cuộc chiến trong bóng tối” che dấu sự lính líu vào Việt Nam.

Giữa cơn phẫn nộ vì những bài tường trình có chủ ý, một vài phóng viên/ký giả nói rằng họ đã nhận được đe dọa giết và ông nói rằng tên ông đã nằm trong danh sách “những người được coi như kẻ thù (của Miền Nam) và phải loại trừ (eliminated)” Trong cuộc phỏng vấn năm 1998, ông nói rằng “ông không coi đó là quan trọng” nhưng khi chính quyền Miền Nam cho bắt vợ ông vì bà đã thôi việc tại bộ thông tin, Malcolm Brownne đã đứng ở ngưỡng cửa, mắt nhìn trừng trừng, tay vung cây súng của tàu ngầm - món đồ kỷ niệm.

Gầy, cao, tóc vàng, Malcolm Brownne có cá tính lập dị từ trong máu, thích bí tất đỏ mà ông nói rằng nó thích hợp – có lối phê bình cay độc giống như Oscar Wilde - ông nội của người anh em chú bác. Ông diễu cợt danh từ “truyền thông” (media) gốc Latin số nhiều - mà những người dối trá dùng khi ý nghĩa thật sự của nó chỉ là “lớp váng”(scum) trên bề mặt. Tóm lại, các nhà truyền thông nhận xét con người ông là phức tạp hơn là huyền thoại và trên hết ông ta là người độc lập. Phóng viên Horst Faas mất năm 2012 nói rằng, “Mal Browne là kẻ cô đơn, làm việc một mình, không chia xẻ tin tức với đồng nghiệp, ít khi hòa mình thân mật với nhóm phóng viên, là tay ngang bướng và không chịu thỏa hiệp sửa chữa bản tin với chủ bút hay bất cứ ai khác.” Malcolm Brown trong cuốn sách “The New Face of War” (Bộ Mặt Mới Của Chiến Tranh) xuất bản năm 1965 - cuốn cẩm nang cho phóng viên mới vào nghề tại Việt Nam đã có những lời khuyên tối quan trọng như sau “ Sắm một đôi giày bốt thật chắc, coi chừng cảnh sát chìm nghe lén những cuộc nói chuyện của phóng viên tại các quán bar và nếu bạn bò trên mặt đất với binh lính và nghe tiếng súng nổ, nhớ đừng ngóc đầu dậy để xem đạn từ đâu bắn tới, nếu không bạn sẽ là mục tiêu sau đó.”

malcolm-browne_06

Bức hình chụp Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu - Ảnh: AP

Các giới chức Miền Nam kiểm duyệt bản tin ban đầu gửi đi nhưng kết quả lẫn lộn. Có một lần ông đã bí mật gửi một bản tin cho AP ở Tokyo bằng cách dán (taping) một bản viết tay trên một tấm hình vô thưởng vô phạt. Vào năm 1965, tác động bởi trào lưu truyền hình gần như thống ngự những buổi bình luận, Malcolm Brown - người chưa bao giờ có một bộ máy truyền hình- đã rời AP để đầu quân cho ABC News in Việt Nam. Nhưng sau một năm ông lại rời ABC vì vấn đề quản lý.

Sau khi phiêu lưu vào lãnh vực viết cho các tạp chí, Malcolm Brown gia nhập New York Times năm 1968. Ông đã từng làm việc ở Nam Mỹ, Đông Âu và Á Châu, rồi lại bỏ và làm chủ bút cho một tạp chí khoa học và rồi quay trở lại Times năm 1985 - chủ yếu viết về khoa học. Ông cũng đã tường trình về chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991 rồi cũng đụng chạm với các giới chức Hoa Kỳ về vấn đề kiểm duyệt tin tức.

Vào ngày 11 Tháng 8, Malcolm Brown trưng diện nhãn hiệu bí tất đỏ của ông và nói chuyện tại Thành Phố New York trong buổi lễ tưởng niệm các đồng nghiệp cũ tại Sài Gòn trong đó có Horst Faas và George Esper. Ông nói đây là cuộc “đoàn tụ gia đình” và luôn coi AP là gia đình thứ hai của ông. Cùng với bà vợ, gia đình quây quần bên quan tài ông gồm có con trai Timothy và con gái Wendy của bà vợ trước, người em Timothy và em gái Miriam. Bà quả phụ Le Lieu Malcolm Brown cho biết ông sẽ được chôn cất tại đất riêng của gia đình tại Vermont./.

Cựu ký giả Richard Pyle của Associated Press đóng góp vào bài viết này.

Bản dịch củaĐào Văn Bình

(*) Câu này khó dịch vì không rõ câu hỏi và có thể tạm dịch “ Browne, tại sao anh không thể hòa hợp với toán này? “

Nguyên văn tiếng Anh: Burning-monk photographer Malcolm Browne diesby ULA ILNYTZKY | Associated Press

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 3520)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
07/07/2011(Xem: 28202)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 8351)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 3521)
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ? Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu, tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.
23/06/2011(Xem: 4250)
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo. Từ phương Bắc, Trung Quốc đã tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lãnh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống còn và giữ gìn sự độc lập của mình, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo ...
20/06/2011(Xem: 7238)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 4858)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
16/06/2011(Xem: 14106)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
15/06/2011(Xem: 5875)
Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
15/06/2011(Xem: 2548)
1. Tín-ngưỡng ở Giao-châu Trước khi các tông-giáo tràn vào, người Việt chắc đã tôn-sùng những mãnh-lực thiên-nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di-tích còn lại không những ở trong tập-tục của dân-gian, mà trong điển-lệ tế-tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc-tích từ đâu tới. Thần Cao-sơnchắc cũng là đức-thánh Tản-viên, thần Long-thủy có lẽ gốc ở thác Bờ. Lại như các đền hay "chùa" Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điệnhẳn là di-tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567