Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tra Am và sư Viên Thành

26/07/201204:24(Xem: 7747)
Tra Am và sư Viên Thành


tra-am-va-su-vien-thanh-so-ban

TRA-AM và SƯ VIÊN-THÀNH

(1879 - 1928)

  • Tên sách : Tra Am và sư Viên Thành
  • Tác giả : Nguyễn Văn Thoa
  • Dịch giả :
  • Ngôn ngữ : Việt
  • Số trang : 356
  • Nhà xuất bản : Môn Đồ Ba La và Tra Am
  • Năm xuất bản : 1972
  • Phân loại : Lịch sử - Tiểu sử - Ngữ Lục
  • MCB : 12010000005950
  • OPAC :
  • Tóm tắt :

 

LỜI PHI LỘ

 

          Thầy tôi khuất bóng nay đã 46 năm. Tôi cũng đã trãi qua mấy chục năm trường, đem tài sức hữu hạn của mình chung lo hành đạo và hóa đạo, cho đến bây giờ tuổi gần bảy mươi, mà ân hưởng của Thầy tôi ngày nào vẫn thấy còn đầm ấm bên lòng. Tình Thầy trò ngoài cái nghĩa là tình thiện tri thức được xông ướp trong mùi hương đạo, còn có nghĩa của một thứ tình gắn bó vô túc duyên không sao nói hết được.

          Tôi xuất gia theo Thầy năm mười bảy. Cũng là số tuổi đời mà Thầy tôi xả vọng tìm chơn. Đến năm hai mươi tuổi, tôi được thiện duyên thọ cụ túc giới. Trong giới đàn nầy tôi đỗ thủ Sa Di và lúc trở về chùa, tôi cảm thấy nỗi hoan hỷ sâu xa nơi Thầy tôi đối với con đường đạo tương lai mà tôi đã bước được một bước đầu. Nỗi hoan hỷ đó, ngày nay hồi tưởng lại, cũng còn thấy tình Thầy như đám mây lành phủ bóng trên người. Tôi không khỏi bùi ngùi tưởng tượng Thầy, đã không được như tôi, mà đơn độc một mình một bóng trở về chùa lặng lẻ sau khi đỗ thủ Sa Di và thọ Cụ Túc giới: bấy giờ Thầy đã hai mươi tuổi, mà Sư Tổ thì đã thị tịch trước đó rồi.

          Có lẽ nhờ túc duyên hiếm có, nên mỗi bước đường đạo của tôi đều gần như bước trùng lên dấu bước của Thầy, khiến cho mỗi lần nghĩ nhớ thời gian quá khứ của đời mình, tôi thấy bóng dáng của mình lồng trong bóng dáng vĩ đại của Thầy.

          Trước khi thị tịch, Thầy có di ngôn cho tôi rằng, cảnh Tra Am chỉ là cảnh tạm cho Thầy tu dưỡng mà thôi, chứ tâm trí của người tu Phật thì lấy thế giới chúng sanh làm nhà; nơi nào đủ thiện duyên hành đạo và hóa đạo thì hãy đến. Rồi Thầy trao tay một bộ kinh Pháp Hoa và tập Lược Ước Tùng Sao, vốn là tập sách ghi chép các sáng tác thi văn của Thầy. Từ đó, đi đâu tôi cũng mang theo hai bộ sách ấy. Kinh Pháp Hoa thì để tụng niệm, lấy đó làm kim chỉ nam bước theo, đưa về cứu cánh nhất thừa của Chư Phật. Lược Ước Tùng Sao thì để hằng đọc và hằng nhớ di âm và thâm tình trời biển của Thầy.

          Tâm nguyện tôi là làm sao có cơ duyên thuận tiện để sao dịch và ấn hành "Lược Ước Tùng Sao".Nhưng năm nầy qua năm khác, giữa cảnh đời náo nhiệt thì Phật sự cũng đa đoan, cho nên tâm nguyện chưa thành tựu. Nhân gặp Phật tử Nguyễn Văn Thoa, có ý biên soạn về cuộc đời và thi văn của Thầy, tôi vô cùng hoan hỷ trao cho tập "Lược Ước Tùng Sao", và nhận phần ấn loát.

          Tập sách được viết gồm có hai phần, phần đầu là tiểu sử, phần kế là dịch trọn thi văn. Sau khi đọc xong bản thảo, tôi gỏi ngay đến Thượng Tọa Trí Quang Nhờ đọc và viết bài tựa. Tôi cũng muốn có thêm nhiều ý kiến bổ túc khác, hầu cho tập sách được hoàn bị, nên đã nhờ Thầy Nguyên Hồng, hiện là Khoa Trưởng Phân khoa Giáo Dục; Thầy Tuệ Sỹ, nguyên Giáo sư Phật học Viện Đại Học Vạn Hạnh; Giáo sư Bửu Cầm, Giáo sư Trường Đại Học Văn Khoa Sài gòn; Thi sĩ Vũ Hoàng Chương, đọcvà nhuận sắc.

          Việc ấn loát được giao phó cho nhà in Hoa Sen của Phật Học Viện Nha trang. Vì xa cách tác giả, vì phương tiện eo hẹp của nhà in, nên sách không tránh khỏi những lỗi lầm đáng tiếc. Mong tác giả hoan hỷ cho điểm nầy.

          Nói về tình riêng, thì việc ấn hành là để tưởng nhớ và báo đáp công ơn muôn một của Thầy. Nói về nghĩa chung, thì tôi mong được nương bóng Thầy để đóng góp cho gia tài văn học Phật giáo Việt Nam.

          Phải trãi qua một năm sách mới in xong. Tôi viết mấy lời phi lộ nơi đây. Tôi không quên tán thán công đức biên soạn và phiên dịch của tác giả, cảm tạ Thượng tọa Trí Quang, và các Thầy Nguyên Hồng, Tuệ Sỹ, Giáo sư Bửu Cầm, Thi sĩ Vũ  Hoàng Chương, đã hỗ trợ cho công trình của tập sách nầy.

 

Tu Viện Quảng Hương Già Lam

Mùa Phật đản 2518, đầu mùa hạ năm Giáp Dần

Thiện Thệ Tử THÍCH TRÍ THỦ


 

 

MỤC LỤC

Chân thành cảm tạ

Tựa

Duyên khởi

Dẫn nhập

Phàm lệ

THIÊN  I

KHÁI QUÁT VỀ THÂN THẾ SƯ VIÊN THÀNH

Chương I: THUỞ ẤY THỜI

Dòng dõi

Thực trạng gia đình

Thuở ấu thời

Thi sĩ măng non

Chương II: GẶP GỠ VIÊN GIÁC ĐẠI SƯ

Gặp gỡ Viên Giác Đại Sư - Trú trì chùa Ba La Mật

Đậu thủ sa di ở Phú Yên - Rời chùa Ba La Mật

Chương III: LÊN TRA AM

Dựng Tra Am

Đời sống hàng ngày

Vân du

Giao du với chư Tôn túc

Giao du với văn thi hữu

Hoằng dương chính pháp

Những ngày cuối cùng

Chương IV: TRA AM HIỆN NAY

Đệ tử

Tra Am hiện nay

THIÊN  II

THI VĂN TRÍCH TUYỂN

Chương I: THƠ

Thơ chữ hán

Thơ chữ nôm

Chương II: VĂN

Văn chữ nôm

Văn chữ hán

Chương III: PHỤ LỤC VỀ VIÊN GIÁC ĐẠI SƯ

Dòng dõi

Xuất chính

Ở Ba la mật

Viên tịch

 

Tài liệu tham khảo

Mục lục

Ý kiến bạn đọc
14/06/201902:20
Khách
Xin file pdf bản điện tử sách tra am và sư viên thành
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2015(Xem: 10998)
Thời gian chỉ là một khái niệm vô hình vô ảnh của nhân loại ; nhưng nó có thể được biểu hiện bởi sự chia chẻ tính đếm qua giây, phút, khắc, giờ, ngày, tuần, tháng, quý, năm, thế kỷ, thiên kỷ. . . và qua sự biến đổi, di dịch, của vật thể và sinh loại trong không gian. Như vậy, tuy vô hình, thời gian cũng để lại vết tích của nó qua các dữ kiện, sự kiện được ghi lại trong sử liệu của số đông, hoặc chỉ là những dấu ấn kỷ niệm trong tâm thức mỗi cá nhân—trong đó, bao gồm tất cả những thành tựu vinh quang hay thất bại đầy tủi nhục của những con người và tập thể trần gian mà họ tùy thuộc, tương thuộc
29/09/2015(Xem: 7680)
Những chế độ độc tài chuyên nghiệp như đảng CSVN không hề sơ hãi những cá nhân chống đối. Cái mà họ sợ là những cá nhân kết hợp thành tổ chức (hoặc hội đoàn) để chống đối. Khi người cộng sản khống chế xã hội dân sự qua điều 4 hiến pháp, thì họ không những cấm đoán sự hình thành của những tổ chức độc lập, mà họ còn thành lập những tổ chức cuội, của chính họ, để phô trương một xã hội dân sự giả tạo, và xâm nhập mọi cơ sở kinh tế hay xã hội khác, để kiểm soát và điều hướng.
24/07/2015(Xem: 8821)
Bài tiểu luận "Ảnh hưởng Phật giáo trong pháp luật triều Lý" đã được viết vào tháng giêng năm 1971 tại Saigon. Tạp chí Từ Quang đã đăng từ số 225 đến 258 (từ tháng 6 đến 9 năm 1974). Tạp chí Từ Quang là Cơ quan truyền bá đạo Phật của Hội Phật Học Nam Việt, trụ sở ở chùa Xá Lợi tại Saigon (bên hông trường Gia Long cũ), do cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, cố Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hoá thời Đệ Nhị Cộng Hoà miền Nam, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Sau khi cụ Mai Thọ Truyền qua đời thì cụ Minh Lạc Vũ Văn Phường làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Tôi xin trân trọng cống hiến quý độc giả Đặc San Chánh Giác của Chùa Hoa Nghiêm ở Toronto. Toronto, ngày 01 tháng 04 năm 1991 NVT
06/07/2015(Xem: 12834)
(Bài này được trích dịch từ tài liệu có tên “Những Giới Hạn Trong Các Vùng Biển” (Limits In The Seas) mang số 143 với tựa đề “Trung Quốc: Tuyên Bố Chủ Quyền Biển Trong Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)” (China: Maritime Claims In The South China Sea) được Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Vùng Cực (Office of Ocean and Polar Affairs), Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Môi Trường và Khoa Học Quốc Tế (Bureau of Ocean and International Environmental and Scientific Affairs) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (US Department of State) công bố ngày 5 tháng 12 năm 2014 – (Nguồn: http://www.state.gov/documents/organization/234936.pdf ). Mục đích của nghiên cứu này là để xem xét tuyên bố về biển và/hay các biên giới của Bộ Ngoại Giao và đánh giá sự phù hợp với luật quốc tế. Nghiên cứu này đại diện quan điểm của Chính Phủ Hoa Kỳ chỉ đối với những vấn đề đặc biệt được thảo luận trong đó và không nhất thiết phản ảnh sự chấp thuận những giới hạn được tuyên bố. Các phân tích gia chính cho nghiên cứu này là Kevin Baumert
27/04/2015(Xem: 10320)
Tờ Thời Luận San Francisco (San Francisco Chronicle) một nhật báo lớn của Mỹ, ngày 17 tháng 9 năm 2008 có đăng một bài mang tựa: "Đạo Ki-tô đang phát triển nhanh chóng ở Mông Cổ, các nhà truyền giáo đã cải đạo cho hàng nghìn người trong khi những người Phật Giáo đang nơm nớp lo sợ là truyền thống văn hóa của mình sẽ bị mất đi" (Christianity growing fast in Mongolia, Missionaries convert thousands while Buddhists fear losing traditional culture), tác giả là Michael Khon một ký giả trong nhóm bình luận gia thời sự quốc tế trong ban biên tập của tờ báo này. Bài báo khá xưa, cách nay đã hơn sáu năm, thế nhưng cũng không hẳn là lỗi thời, bởi vì tình trạng trên đây chẳng những vẫn còn đang tiếp diễn ở Mông Cổ mà cả nhiều nơi khác trên thế giới. Bài báo cũng đã được một trang mạng Phật Giáo có tầm cỡ quốc tế với 9 thứ tiếng khác nhau là Buddachannel dịch sang tiếng Pháp và đăng tải ngày 6 tháng 2 năm 2009, với tựa ngắn hơn: "Phật Giáo Mông Cổ đang bị mất đà" (Le Bouddhisme Mongol en perte de
06/04/2015(Xem: 7338)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”[1] cho thấy tại Giao Châu lúc bấy giờ, đã là một lãnh địa hùng cứ ở phương Nam không thua kém gì nước Tàu tại phương Bắc. Sử gia Lê Mạnh Thát nhận định về điều này như sau trong bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam:
10/01/2015(Xem: 5235)
Trung tâm Văn hóa Phật giáo ở Huế, còn gọi là Trung tâm Liễu Quán, nằm bên hữu ngạn sông Hương, được thành lập từ mấy chục năm nay. Sau năm 1975, Nhà nước quản lý mãi cho đến gần hai mươi năm sau mới giao quyền lại cho Tỉnh hội Phật giáo Huế, bấy giờ chỉ là một ngôi nhà… không thể coi là một trụ sở văn hóa Phật giáo được. ta t
07/11/2014(Xem: 32335)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
17/08/2014(Xem: 25601)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
04/05/2014(Xem: 8483)
Bác sĩ người Đức Erich Wulff (1926-2010) dạy tại trường Ðại học Y khoa Huế 1961-1967, trong khuôn khổ viện trợ giáo dục của Tây Ðức. Vì một sự tình cờ, tác giả đã chứng kiến biến cố tại Ðài Phát thanh Huế đêm 8/5/1963 làm 8 Phật tử bị chết một cách thê thảm và đã trình bày sự kiện này trước Ủy ban điều tra đàn áp Phật giáo Việt Nam của Liên hiệp quốc vào tháng 9/1963.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]