Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhân kỷ niệm ngày 700 năm ngày nhập Niết Bàn của Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Viên Như

10/08/201101:18(Xem: 6928)
Nhân kỷ niệm ngày 700 năm ngày nhập Niết Bàn của Phật Hoàng Trần Nhân Tông - Viên Như


Tran Nhan Tong
Nhân kỷ niệm ngày 700 năm
ngày nhập Niết Bàn của Phật Hoàng Trần Nhân Tông,
Dịch lại bài “Hữu cú vô cú” của Ngài giảng tại chùa Sùng Nghiêm
Viên Như

Bài kệ "Hữu cú vô cú" đã có nhiều người dịch, ngoài các bản dịch còn có bản giảng giải của Hòa Thượng Thích Thanh Từ. Tuy nhiên theo thiển ý của tôi hầu hết các bản dịch cũng như lời giảng vẫn còn nhiều chỗ chưa rõ ràng, nhất quán và thỏa đáng. Vì vậy tôi xin dịch và giảng lại bài này trong cách hiểu biết của tôi.

Vấn:
1.
Hữu cú vô cú,
Như đằng ỷ thụ.
Như hà ?
Điều Ngự nãi viết :
2.
Hữu cú vô cú
Đằng khô thụ đảo
Kỷ cá nạp tăng
Chàng đầu khái não.
3.
Hữu cú vô cú
Thể lộ kim phong
Hằng hà sa số
Phạm nhẩn thương phong.
4.
Hữu cú vô cú
Lập tông lập chỉ
Đả ngõa toản quy
Đăng sơn thiệp thủy.
5.
Hữu cú vô cú
Phi hữu phi vô
Khắc chu cầu kiếm
Sách ký án đồ.
6.
Hữu cú vô cú
Hỗ bất hồi hỗ
Lạp tuyết hài hoa
Thủ chu đãi thố.
7.
Hữu cú vô cú
Tự cổ tự kim
Chấp chỉ vong nguyệt
Bình địa lục trầm.
8.
Hữu cú vô cú
Như thị như thị
Bát tự đả khai
Toàn vô ba tỷ.
9.
Hữu cú vô cú
Cố tả cố hữu
A sách sách địa
Náo quát quát địa.
10.
Hữu cú vô cú
Đao đao phạ phạ
Tiệt đoạn cát đằng
Bỉ thử khoái hoạt.
Hỏi:
1-
Chấp có chấp không,
Như dây bám cây.
Là thế nào ?

2-
Chấp có chấp không,
Giây khô cây ngả
Thầy tu mấy gã
Mẽ trán sức đầu
3-
Chấp có chấp không,
Thân sương gió sắt
Hằng hà sa số
Thương đâm giao khắc
4-
Chấp có chấp không,
Lập chỉ lập tông
Đập ngói đục rùa
Lên non lội nước
5-
Chấp có chấp không,
Chẳng có chẳng không
Khắc thuyền tìm kiếm
Tìm ngựa theo tranh
6-
Chấp có chấp không,
Lệ thuộc hay không
Nón tuyết hài hoa
Ôm cây đợi thỏ
7-
Chấp có chấp không,
Xưa cũng như nay
Quên nguyệt nhìn tay
Đất bằng chết đuối
8-
Chấp có chấp không,
Như vậy như vậy
Mở miệng nói ra
Đều không khỏi mũi
9-
Chấp có chấp không,
Nhìn trái nhìn phải
Nói đi nói lại
Ngây ngô ồn ào
10-
Chấp có chấp không,
Lo lo sợ sợ
Cắt hết giây giợ
Đó đây thích chí

問:
1.
有句無句,
如藤倚樹。
如何?
調御乃曰:
2.
有句無句
藤枯樹倒
幾箇衲僧
撞頭磕腦。
3.
有句無句
體露金風
殑伽沙數
犯刀傷鋒。
4.
有句無句
立宗立旨
打瓦鑽龜
登山涉水。
5.
有句無句
非有非無
刻舟求劍
索驥按圖。
6.
有句無句
互不回互
笠雪鞋華
守株待兔。
7.
有句無句
自古自今
執指忘月
平地陸沉。
8.
有句無句
如是如是
八字打開
全無巴鼻。
9.
有句無句
顧左顧右
阿刺刺地
鬧聒聒地。
10.
有句無句
忉忉怛怛
截斷葛藤
彼此快活。


Bài kệ này gồm có 9 đoạn, mỗi đoạn 4 câu, 1 câu 4 chữ, tuy số lượng từ dùng trong bài kệ rất ít nhưng rất súc tích, có tính khái quát rất cao. Do đó việc dịch nghĩa toàn bài một cách đầy đủ là không dễ. 9 đoạn được chia làm 3 phần như sau:

Phần 1: Từ đoạn 1 cho đến đoạn 5

Phần nầy ngài phủ nhận tất cả phạm trù mà người ta chấp như : Chấp một bên hoặc chấp có, hoặc không, chấp cả hai, hoặc chấp có nương vào không mà tồn tại hoặc ngược lại. Đồng thời nêu lên những tác hại và vô ích của nó.

Phần 2: Từ đoạn 6 cho đến 8

Phần này ngài giải thích rõ việc nói CÓ, KHÔNG chỉ là phương tiện diển đạt, tự nó không phải là cứu cánh hay tự nó không phản ảnh được toàn thể thực tại chân thật.

Phần 3: Đoạn 9.

Phần này ngài khẳng định chỉ khi nào cắt bỏ những giây giợ của những khái niệm CÓ, KHÔNG ta mới thực sự tự do, tự tại.

Bài kệ này đã có nhiều người dịch, ngoài các bản dịch còn có bản giảng giải của Hòa Thượng Thích Thanh Từ. Tuy nhiên theo thiển ý của tôi hầu hết các bản dịch cũng như lời giảng vẫn còn nhiều chổ chưa rõ ràng, nhất quán và thỏa đáng. Vì vậy tôi xin dịch và giảng lại bài này trong cách hiểu biết của tôi.

Trước hết như ta thấy toàn bài này nhằm trả lời cho câu hỏi “Câu có câu không như giây leo cây là gì? "

Câu có, câu không nghĩa là chấp co, chấp không. Đây là cặp đối đải tiêu biểu cho tất cả các phạm trù đối đải khác như: Âm - dương, phải - trái, trong - ngoài, chánh - tà , chân - ngụy v.v..

Đây là hai phạm trù triết học mà từ xưa tới nay các triết gia đã tranh luận không ngớt. Từ những tranh cải này đã sinh ra những phái chấp có, chấp không, người thì bảo vũ trụ thường hằng, kẻ bảo không, (người cho rằng mọi hành vi con người đều do một đấng tối cao điều khiển, kẻ khác lại bảo nó là kết quả của các tư duy và hành động của người ấy xuyên suốt từ quá khứ tới tương lai) hay nói khác hơn, người ta cố chia cắt thực tại thành những mảnh khác nhau, điều mà trên thật tế không làm được.

Quan điểm của các thiền sư thì xem khái niệm có, không là chất liệu của khái niệm do đó tự nó đã là không thật thì làm sao dựa vào đó mà xác định một thực tại luôn sống động.

Chính vì vậy đối với các thiền sư việc làm ấy là phi lí và vô nghĩa. Đây chính là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt bài kệ của ngài Giác Hoàng Điều Ngự. Tuy ngôn ngữ cũng như ý tưởng mỗi đoạn có khác nhau nhưng tựu trung là bác bỏ cái ý tưởng tự đặc ra cho mình một quan điểm rồi dựa vào quan điểm ấy mà định nghĩa thế giới khách quan, trong khi thế giới khách quan luôn thay đổi.

Do đó nhìn từ góc độ nào cũng đều phiến diện và đều không phản ảnh đúng thực tại, ngay từ đầu Ngài Điều Ngự đã khẳng định

1-
"Chấp có chấp không,
Dây khô cây ngã
Thầy tu mấy gã
Sức trán u đầu"

Trước hết khi ai đó nói “không” thì rõ ràng nội hàm của từ “không” đã dựa trên khái niệm “có” do đó một trong hai vế không xuất hiện thì vế còn lại cũng không tồn tại. Ở đây ngài Trần Nhân Tông đã ví đây là dây khô cây ngã. Trong số đó không ít là thầy tu, cứ đi tìm một cái “có” đối lập với cái “không”, một việc làm vô ích, điên đảo.

2-
“Chấp có chấp không,
Sương thân gió sắt

Hằng hà sa số
Thương đâm dao khắc”

Do người ta cứ cho rằng co, không là hai phạm trù đối nghịch với nhau từ đó không ngừng tranh cãi và kết quả là bao nhiêu mâu thuẩn xảy ra, cũng như sương với gió luôn đi liền với nhau, nhưng cũng không ngừng tác động lên nhau.

Ở đây ngài TNT ví sương là thể, tạm dịch là Thân, còn gió là sắt, Thân thì mềm còn sắt thì cứng, cho nên nếu cứ tiệp tục đối chọi lẩn nhau thì sẽ gây cho nhau vô số vết thương. Ngày nay chúng ta thấy những giòng chảy của tư tưởng hửu ngã đang đụng độ nhau mãnh liệt, và kết quả như thế nào thì đã quá rõ.

Trong đoạn này chỉ có câu “ Thể lộ kim phong” là cần phải giải thích. Hầu hết các bản dịch đều dịch là “thể lộ gió thu”. Tuy nhiên chỉ có Hòa Thượng Thích Thanh Từ chú giải.

Ngài viết “Khi người ta chấp câu có câu không tức là chấp hai bên, thì cái chân thật hiện tiền người ta không bao giờ thấy, cũng như vào mùa thu lá rụng hết thân cây bày trơ trọi nhưng không ai thấy rõ” (Tam Tổ Giảng Giải tr 106).

Ở đây tôi dịch “Thân sương gió sắt” là vì câu thứ 2 mỗi đoạn luôn là một câu có hai vế đối nhau rõ ràng. Ví dụ: đoạn 1 : dây khô cây ngã, đoạn 3 : lập chỉ lập tông, đoạn 4: phi hửu phi vô. Ở đây là vế đầu “thân sương” vế sau “gió sắt” ai cũng biết “Sương và gió thường được nói liền với nhau , cũng như ở trên “dây khô – cây ngã” hay đoạn sau “Lập chỉ – lập tông” do đó dịch “thể lộ gió thu” thì khó hiểu.

3-
Chấp có chấp không,
Lập chỉ lập tông
Đập ngói đục rùa
Lên non lội nước

Do chủ trương “có” hay “không” người ta lập ra nhiều tông phái khác nhau để bảo vệ lập trường của mình. Ngay trước thời Đức Phật đã có nhiều phái chủ trương “Am thanh thường còn” phái khác thì cho rằng “âm thanh không thường còn”.

Đối với ngài TNT thì ngài cho rằng đó là những việc làm vô ích, điên đảo và mộng mị. Ngài ví điều đó như “Đập ngói đục rùa”. Rùa ở đây là rùa đá, người ta thường đục đá hình con rùa để mang tấm bia, thờ ở các nơi trang nghiêm như đình, chùa. miếu. Ngói thì bằng đất nung, tuy có cứng nhưng sao cứng bằng đá được, vậy cho nên đập ngói ra để lấy những mảnh vỡ có mủi nhọn để đục rùa đá là chuyện nực cười.

Đất với đá là hai khái niệm thường đi liền với nhau, đất thì mềm, đá thì cứng, làm sao mà lấy cái mềm mà đục cái cứng cho được. Đây là một việc làm vô bổ, đảo điên. Cũng như lên non mà lội nước vậy. Qua đây ta có thể nghĩ rằng vè nói ngược có lẽ đã xuất hiện rất sớm ở nước ta.

Câu nầy HT TTT giảng rằng “Đã ngõa toản quy" là dùi rùa để lấy lửa mà nấu cơm, (như ngày xưa người ta thường cọ xát hai thanh tre khô để lấy lửa), mà gạo ở đây là ngói đập ra”. Tự cái việc lấy ngói nấu cơm là một việc làm ngu ngốc rồi, cho dù có dùi rùa ra lửa đi nữa thì có cần không?.

4-
Chấp có chấp không,
Chẳng có chẳng không
Khắc thuyền tìm kiếm
Tìm ngựa theo tranh

Đoạn này ngài nói không chấp có hay không chấp không, không có nghĩa là chấp cả hai bên, vì ngài biết rằng đến đây người hỏi có thể nghĩ rằng nếu không chấp có mà cũng chẳng chấp không vậy là chấp cả có lẫn không?

Do đó ngài nói đoạn này để minh định rằng cho dù chấp gì cũng là sản phẩm của ngã kiến, mà đã là ngã kiến thì chính là nguồn gốc của mọi mâu thuẩn, hậu quả của nó là hạn chế tự do tư tưởng và dẩn đến khổ đau, tự nó là hý luận và vô ích như việc làm dấu trên thuyền để sau tìm kiếm đã rơi xuống sông, hay căn cứ vào tranh mà tìm ngựa tốt vậy.

5-
Chấp có chấp không,
Lệ thuộc hay không
Nón tuyết hài hoa
Ôm cây đợi thỏ

Đoạn này ngài lại trả lời cho câu hỏi “không chấp có, chẳng chấp không, cũng chẳng chấp cả có lẫn không, vậy chắc phải chấp rằng “Cả hai dựa vào nhau mà tồn tại ”.

Cũng như những đoạn trước ngài cũng phủ nhận cách lập luận đó, ngài minh họa điều đó như nón làm bằng tuyết hay hài làm bằng hoa, cũng như ôm cây đợi thỏ chạy đâm vào cây chết khỏi mất công tìm bắt, những vịêc đó đều là vô bổ.

6-
Chấp có chấp không,
Xưa cũng như nay
Quên nguyệt nhìn tay
Đất bằng chìm đắm

Đến đây ngài cho người hỏi hiểu rằng chuyện lập ngôn CÓ – KHÔNG chỉ là phương tiện, nhưng xưa nay người ta cứ tranh cải có, không, đâu biết rằng ngôn ngữ chỉ là phương tiện, cũng như ngón tay chỉ mặt trăng, nương theo ngón tay để thấy mặt trăng, không nên lầm lẫn ngón tay là mặt trăng, bởi vì đó là chuyện sai lầm, mộng mị, tương tự như thế là việc chìm trên đất bằng.

Đã nói chìm là nói đến nước, vậy mà ở đây là trên đất bằng thì làm sao chìm được, đây là cách nói phê phán sự vô lý, vô lý như xem ngón tay là mặt trăng vậy.

7-
Chấp có chấp không,
Như vậy như vậy
Mở miệng nói ra
Đều không khỏi mũi

Trong tinh thần dùng phương tiện để chỉ cứu cánh, muốn làm cho người ta hiểu đạo thì phải dùng lời nói. Vấn đề là hành giả phải biết rằng Đạo không phải là ngôn từ, “Ý tại ngôn ngoại” mở miệng nói ra, đều không khỏi mũi”. Dịch như thế có nghĩa là tôi hiểu hai câu này hoàn toàn khác với những người dịch bài này từ trước đến nay.

Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch: “Chữ bát mở ra, sao không nắm mũi?” (TTGG tr 112)

Nguyễn Lang dịch : “Tám chữ tháo tung, không nơi bám víu” VNPGSL – C1 – T 361

Lê mạnh Thát dịch: “Tám chữ mở toang, không còn mũi rẩy” (Trần Nhân Tông Con người và Tác phẩm ch II Bài giảng chùa Sùng nghiêm) .

Hòa Thượng Thích Phước Sơn dịch: “Tám chữ tháo tung, toàn không manh mối” (tam tổ thực lục VNCPHVN 1995 tr 29)

Trong 4 cách dịch trên Nguyễn Lang có chú thích tám chữ là “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”.

Hòa Thượng Thích Thanh Từ thì viết rằng : “Bát tự là chữ bát nhưng có chỗ giải nghĩa bát tự là tám chữ, rồi dẫn Kinh niết Bàn câu “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”. Đây là một lầm lẫn vì không hiểu được ý nhà thiền. Hai chân mày chúng ta nằm hai bên, ở giữa hở giống hình chữ bát của chữ Hán. Chữ bát mở ra là hai chân mày đã mở trống, liền đó chụp lấy lổ mũi, tức là phương tiện đã bày ra rồi thì phải nhận ra chổ cứu cánh”.(TTGG tr 112)

Hai dịch giả còn lại không giải thích gì.

Như đã trình bày ở trên, tôi dịch hai câu này là “Mở miệng nói ra, đều không khỏi mũi”. Sở dĩ tôi dịch “Bát tự đã khai” là “Mở miệng nói ra” là vì tôi cho rằng chữ bát là hình môi trên, phàm khi nói thì phải mở môi, do đó trong văn học người ta thường dùng môi để biểu thị cho lời nói như : đầu môi chót lưỡi, chẳng hở môi, mật ngọt trên môi. Trước đó trong lần nói chuyện ở chùa ? trả lời một vị Tăng ngài TNT cũng đã dùng chữ này.

“Vị tăng hỏi thêm: “Cứu cánh thế nào?” ngài dạy “ át tự đã khai phân phó liễu, cánh dư vô sự khả trình quân”.

Ta dể dàng hiểu rằng ngài nói “những gì đáng nói đã nói rồi, còn chi đâu nữa nói cùng ông”. (Trên thực tế hai lông mày của mọi người không giống chữ bát, trừ lộn ngược đầu).

Còn câu “Toàn vô ba tỷ” tôi dịch là “Đều không khỏi mũi” có nghĩa rằng muốn mở miệng nói thì không thể không lấy hơi từ mũi, hay nói khác hơn là đều không khỏi bị mũi chi phối.

Trở lại bài kệ của ngài TNT thì ở đoạn 7 ngài đã nói đừng chấp vào phương tiện mà quên cứu cánh. Tiếp đến đoạn này ngài lại nói nhưng muốn chỉ cho hành giả cứu cánh thì không thể không dùng phương tiện, phương tiện ở đây là lời nói hay ngôn ngữ, ngôn ngữ không chưa đựng Đạo nhưng nó dẩn ta tới với đạo, làm cho ta hiểu và tu Đạo và cuối cùng là ngộ Đạo. Khi ngộ Đạo rồi (tới chỗ cứu cánh) thì mới nghĩ tới “ngôn ngữ đạo đoạn” hay “giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự”

8-
Chấp có chấp không,
Nhìn trái nhìn phải
Nói đi nói lại
Ngây ngô ồn ào

Tất cả chỉ vì chấp vào ngôn từ mà tạo ra bao nhiêu mâu thuẩn, việc cứ tiếp tục tranh cải chỉ là hý luận mà thôi.

9-
Chấp có chấp không,
Lo lo sợ sợ
Cắt hết giây giợ
Đó đây thích chí

Do đó khi biết rằng, Đạo vốn viên dung, vượt ngoài ngôn ngữ thì chuyện có, không chỉ là mộng mị, buông hết lo âu, cạn nguồn trói buộc thì lúc ấy mới thấy tự tại.

Linh Sơn, 11/2008

Viên Như
(phattuvietnam.net)

Bài Viết Liên Hệ:
Nhân kỷ niệm ngày 700 năm ngày nhập Niết Bàn của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Dịch lại bài “Hữu cú vô cú” của Ngài giảng tại chùa Sùng Nghiêm, Viên Như
Suy nghĩ về một đoạn dịch ngắn trong dịch phẩm “Hữu cú vô cú” của dịch giả Viên Như, Thích Minh Trí
Thử đối chiếu bốn bản dịch bài kệ "Hữu cú vô cú", Thích Thanh Thắng
Trao đổi với tác giả bài viết “Suy nghĩ về một đoạn dịch ngắn trong dịch phẩm “Hữu cú vô cú” của dịch giả Viên Như", Viên Như

12-02-2008 05:23:13

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 3861)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
07/07/2011(Xem: 30975)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 9672)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 3942)
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ? Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu, tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.
23/06/2011(Xem: 4678)
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo. Từ phương Bắc, Trung Quốc đã tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lãnh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống còn và giữ gìn sự độc lập của mình, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo ...
20/06/2011(Xem: 8401)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 5550)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
16/06/2011(Xem: 15839)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
15/06/2011(Xem: 6289)
Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
15/06/2011(Xem: 3011)
1. Tín-ngưỡng ở Giao-châu Trước khi các tông-giáo tràn vào, người Việt chắc đã tôn-sùng những mãnh-lực thiên-nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di-tích còn lại không những ở trong tập-tục của dân-gian, mà trong điển-lệ tế-tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc-tích từ đâu tới. Thần Cao-sơnchắc cũng là đức-thánh Tản-viên, thần Long-thủy có lẽ gốc ở thác Bờ. Lại như các đền hay "chùa" Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điệnhẳn là di-tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]