Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sức Sống Việt Nam Qua Diện Mạo Kiến Trúc Thời Trần Nhân Tông

10/08/201101:09(Xem: 2790)
Sức Sống Việt Nam Qua Diện Mạo Kiến Trúc Thời Trần Nhân Tông


SỨC SỐNG VIỆT NAM QUA DIỆN MẠO KIẾN TRÚC
THỜI TRẦN NHÂN TÔNG
Nguyễn Quang Trung Tiến

Nói đến nhà Trần, người Việt Nam thường liên tưởng đến chiến tích oai hùng của nước Đại Việt với ba lần đánh bại quân Mông - Nguyên (1258, 1285, 1288), nối tiếp cha ông làm dày thêm những trang sử chống xâm lược vẻ vang của dân tộc.

Song, mặt trái của chiến tranh, dẫu là người giành được thắng lợi, vẫn luôn để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng cả về nhân mạng lẫn đời sống xã hội, gây trì trệ trong phát triển đất nước, không thể dễ dàng khắc phục.

Ấy vậy nhưng nhà Trần- mà trách nhiệm chính là vua Trần Nhân Tông, với 15 năm làm vua (1278-1293), 15 năm dưới danh nghĩa Thái Thượng hoàng và Phật hoàng (1293-1308), vừa trực tiếp lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống Nguyên (1285 và 1288) vừa đảm nhận trọng trách phát động công cuộc trùng tu, xây dựng lại đất nước sau chiến tranh- vẫn nhanh chóng lập nên những kỳ tích mới trong xây dựng, thể hiện qua diện mạo kiến trúc thời Trần Nhân Tông.

Qua ba lần xâm lược, dưới vó ngựa của hàng chục vạn quân Mông Cổ rồi quân Nguyên, làng mạc, ruộng vườn khắp nơi tiêu điều xơ xác; rất nhiều công trình như thành quách, đền đài, cung điện, lăng miếu, chùa tháp, dinh thự, nhà cửa bị triệt hạ. Ngay cả Kinh đô Thăng Long cũng ba lần bị quân giặc đốt sạch, phá sạch; đến nỗi vào ngày 27 tháng 3 năm Mậu Tý (28-4-1288), khi vua tôi nhà Trần chiến thắng trở về thì không còn cung điện để ở, phải nghỉ tạm ở lang thị vệ.

Vì thế, một trong những nhiệm vụ cấp thiết mà vua Trần Nhân Tông phải tiến hành ngay sau cuộc chiến là tái thiết Kinh đô. Năm 1289, Kinh đô Thăng Long được xây dựng lại với qui mô lớn. Triều đình không những huy động thợ thủ công cả nước, mà còn bắt số quân dân trước đây từng đầu hàng giặc phải đảm trách công việc nặng nhọc là chuyên chở gỗ đá xây dựng để chuộc tội. Đáng tiếc là sử sách nhà Trần không ghi rõ công việc tu tạo của thời kỳ nầy ra sao, nên không thể tường tận chi tiết xây dựng các công trình kiến trúc thuở đó.

Tuy nhiên, qua một vài đoạn mô tả trong bài thơ An Nam tức sự của Trần Phu, sứ giả nhà Nguyên đi sứ sang Đại Việt sau chiến tranh (1293), có thể hình dung phần nào bộ mặt cung điện lầu gác Thăng Long sau khi tái thiết.

Chẳng hạn: Từ sứ quán đi 60 dặm thì qua cầu Yên Hòa, đi một dặm nữa thì tới phía bắc cầu Thanh Hoa, trên cầu có xây 19 gian nhà. Đến nơi tù trưởng ở (tức cung điện vua Trần ở) có Dương Kinh môn; trên cửa có gác gọi là Triều Thiên các, cửa nhỏ bên trái gọi là Vân Hội môn, bên trong cửa có khoang Thiên tỉnh ngang dọc độ vài mươi trượng (khoảng 7m x 7m). Từ bậc thềm bước lên thấy dưới gác có một tấm biển đề là Tập Hiền điện, bên trên có gác lớn gọi là Minh Linh các. Từ chái bên phải đi tới, gặp một điện lớn gọi là Đức Huy điện, cửa bên trái gọi là Đông Lạc môn, cửa bên phải gọi là Kiều Ứng môn, các biển đều bằng chữ vàng.

Mô tả trên của sứ giả Nguyên chứng tỏ đất nước đã bước đầu vượt qua được những khó khăn, tổn thất nghiêm trọng của nền kinh tế sau chiến tranh để đi lên. Thêm vào đó, bộ mặt Kinh đô có phần khởi sắc chắc hẳn một phần còn do vua Trần Nhân Tông cố gắng sửa sang lại Thăng Long để tương xứng tầm vóc thắng lợi to lớn mà toàn dân tộc vừa giành được.

Diện mạo Kinh đô Thăng Long thời Trần Nhân Tông đã phần nào xuất lộ ở khu di tích Hoàng thành Thăng Long được phát hiện từ năm 2002, nhưng quả thật rất khó để đối chiếu cụ thể với những mô tả của sứ nhà Nguyên. Dẫu sao thì các công trình giai đoạn đó cũng đã góp phần làm nên Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật với Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long (và ngày 28-12-2007, Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch đã ký quyết định công nhận xếp hạng di tích quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lập hồ sơ trình UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới).

Cùng với việc tu bổ Kinh đô, vua Trần Nhân Tông tiếp tục chú trọng xây dựng vùng đất phủ Thiên Trường (Từ năm 1239 các vua Trần đã cho xây dựng ở Tức Mặc hàng loạt cung điện, lầu gác, nhà cửa để làm nơi ở cho con cháu, họ hàng, thân thích thuộc hoàng gia và cho chính bản thân các vua sau khi đã nhường ngôi lên làm Thái Thượng hoàng. Năm 1262 nhà Trần đổi Tức Mặc thành phủ Thiên Trường).

Vua Trần Nhân Tông cho dựng nhà dạy học để dạy dỗ con em quý tộc; nhiều cung thất, phủ đệ của các vương tôn, công hầu, khanh tướng lần lượt mọc lên ở đó. Tất cả các công trình hợp lại, biến phủ Thiên Trường thành một nơi sầm uất, thái bình thịnh vượng.

Ngày nay, tại các xã phía bắc thành phố Nam Định (địa bàn phủ Thiên Trường xưa) vẫn còn lưu dấu các công trình kiến trúc thuở đó qua các tên làng như Phương Bông, Liễu Nha, Hậu Bồi, Đệ Nhất, Đệ Nhị...; tên các xứ đồng như Vườn Quan, Nội Cung, Vườn Văn Chỉ, Đường Chức Ngự, Cồn Đình, Cửa Triều... Những tên gọi đó gợi lên hình ảnh một quần thể kiến trúc với quy mô lớn, đa dạng và hoành tráng.

Khung cảnh tươi vui, đầm ấm của Thiên Trường được chính vua Trần Nhân Tông trong một lần về thăm viết thành bài thơ Thiên Trường vãn vọng đầy cảm xúc:

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.

Dịch nghĩa:

Thôn trước thôn sau khói phủ mờ
Nửa không nửa có bóng chiều hôm.
Mục đồng thổi sáo xua trâu ngủ
Cò trắng từng đôi lượn xuống đồng.

Không riêng các công trình kiến trúc của nhà nước; nhiều dinh thự, trang ấp, phủ đệ, lầu gác, từ đường, am động, lăng mộ của quý tộc Trần cũng mọc lên nhan nhản. Sự phát triển nầy một phần do chế độ điền trang, thái ấp thời Trần khá phổ biến; mặt khác do nhiều tướng sĩ, quý tộc Trần có công lao lớn trong kháng chiến chống xâm lược nên được phong thưởng nhiều đất đai, tài sản.

Thời vua Trần Nhân Tông, nhiều nơi có các công trình kiến trúc tư nhân lớn như trang ấp của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp (nay thuộc địa phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương); trang ấp của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật ở Tức Mặc (Nam Định); của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư ở Vân Đồn (Hải Phòng); của Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão ở Phù Ủng (Hưng Yên)...

Bên cạnh các công trình kiến trúc của nhà nước và dinh thự quý tộc, quan lại; nhà cửa, phố chợ trong nhân dân cũng được tái thiết nhanh chóng và trở nên sầm uất sau chiến tranh. Bài An Nam tức sự của Trần Phu, sứ giả nhà Nguyên, cho biết trong các xóm làng thường có chợ, cứ hai ngày họp một phiên, hàng hóa trăm thứ bày la liệt, hễ cách năm dặm thì dựng ngôi nhà ba gian, bốn phía đặt chõng để làm nơi họp chợ.

Còn nhà cửa của nhân dân thì san sát, với những đặc trưng nổi bật kiểu Việt mà sứ giả nước Nguyên Trần Phu khó có thể quên khi mô tả: Nhà không có kiểu gấp mái hoặc chống kèo, mà từ đòn đông đến mái hiên cứ thẳng tuột một mạch, như đổ hẳn xuống. Nóc nhà tuy hết sức cao nhưng mái hiên thì chỉ cách mặt đất chừng bốn năm thước, có nhà còn thấp hơn nữa là khác, nên bị tối, mái nhà ngang mặt đất mà trổ cửa sổ... Những mô tả này phản ánh một không khí mới của sự phát triển kinh tế-xã hội nói chung, lĩnh vực kiến trúc nói riêng của nước Đại Việt dưới thời vua Trần Nhân Tông.

Ngoài các dạng kiến trúc nói trên, sẽ là một thiếu sót lớn nếu không đề cập đến kiến trúc Phật giáo đời Trần Nhân Tông, bởi dấu ấn của vị vua nầy để lại hết sức sâu đậm trong tổng thể kiến trúc Phật giáo thời Trần.

Phật giáo vẫn phát triển mạnh vào đầu thời Trần, tuy ở lĩnh vực cai trị đất nước, tư tưởng Nho giáo bắt đầu có ưu thế. Không những dân chúng mà ngay các vương hầu, khanh tướng, cùng một số vua Trần thường quy y Phật. Đặc biệt sau chiến thắng quân Nguyên, vào tháng 3 năm Quý Tỵ (1293), vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái Thượng hoàng, sau đó đi tu, góp phần mở đầu cho sự ra đời Thiền phái Phật giáo Trúc Lâm Tam tổ ở Đại Việt.

Địa bàn của Thiền phái Trúc Lâm nằm trên một vùng Đông Bắc rộng lớn, kéo từ Uông Bí, Đông Triều về đến Thăng Long. Chính sự lớn mạnh của Thiền phái Trúc Lâm đã đóng góp khá nhiều công trình kiến trúc cho Phật giáo, với việc trùng tu, xây dựng thêm nhiều chùa tháp mới.

Trong số các kiến trúc Phật giáo đời Trần Nhân Tông, đáng kể nhất là các ngôi chùa, tháp ở núi Yên Tử (Đông Hưng, Quảng Ninh). Nơi đây đã trở thành một trung tâm lớn của Phật giáo, với một hệ thống các công trình kiến trúc Phật giáo đồ sộ đã được xây dựng, có nhiều nhà sư nổi tiếng trông coi, do các nhà sư của Thiền phái Trúc Lâm của Trần Nhân Tông đứng đầu.

Tại Yên Tử, từ chân núi đi lên với chiều dài khoảng 30 cây số, có chừng hai mươi công trình kiến trúc lớn nhỏ. Các công trình lớn như chùa Lân (Long Động), chùa Hoa Yên, chùa Giải Oan, chùa Bảo Sái, viện Thạch thất Mị ngự, viện Phu Đồ, am Vân Tiêu, Dược Am...

Trong hệ thống chùa tháp ở Yên Tử, chùa Hoa Yên được coi là chính tự. Nơi đây, Thượng hoàng Trần Nhân Tông cùng các đệ tử về xây dựng và trụ trì luôn. Chùa Hoa Yên được dựng lên trên một sườn núi rộng, thoai thoải. Núi được bạt thành hai lớp nền rất lớn, lớp nền trước là nơi dựng cổng chùa và các tháp, lớp nền sau là tòa điện chính của chùa. Ngoài chính điện, chung quanh chùa có lầu trống, lầu chuông, nhà tri khách, nhà dưỡng tăng, nhà in và chứa kinh sách, nhà thuyết pháp...

Tổng thể chùa tháp ở Yên Tử được xem là một công trình kiến trúc Phật giáo khang trang, bề thế, ghi dấu tên tuổi Trần Nhân Tông, vị tổ đã có công lớn khai sinh ra hệ phái Trúc Lâm Tam tổ trên vùng đất này. Xá lị của Trần Nhân Tông đã vĩnh viễn ở lại cùng ngôi tháp được xây dựng sau cổng chùa Hoa Yên đã nói lên điều đó.

Hai lần cùng dân tộc lao đầu vào cuộc kháng chiến khốc liệt chống quân Nguyên, Trần Nhân Tông đã đưa đất nước đạt được những thắng lợi rực rỡ, vinh quang. Sự vĩ đại của ông càng được nhân lên gấp bội, khi cũng chính ông là người khởi đầu sứ mạng khắc phục hậu quả chiến tranh, tái thiết và xây dựng lại đất nước.

Với vai trò Hoàng đế, và sau đó là Thái Thượng hoàng rồi cả Phật hoàng, Trần Nhân Tông đã phát huy hào khí Đông A làm nên bước đột phá thần kỳ, tạo ra một diện mạo mới trong đời sống vật chất lẫn tinh thần cho nước Đại Việt sau chiến cuộc.

Thật không dễ dàng để đạt được kỳ tích trong xây dựng sau chiến tranh đổ nát hoang tàn, khi chỉ 5 năm sau ngày chấm dứt cuộc chiến (1293), sứ giả nhà Nguyên sang đất Đại Việt lại chỉ thấy cảnh xe thuyền, người ngựa tấp nập; nhà cửa, đền tạ, cung điện san sát; một sự thái bình thịnh trị tràn ngập khắp đất nước; sức sống diệu kỳ lan tỏa khắp nơi...

Sinh khí quốc gia mà Trần Nhân Tông nhanh chóng tạo dựng được, thể hiện một phần từ các công trình kiến trúc, đã khiến kẻ thù phải khâm phục, nể sợ; để rồi bao lần muốn tiếp tục gây chiến tranh nhằm rửa nhục, triều Nguyên đành phải tạm gác qua một bên, cuối cùng đành chấm dứt luôn ý định trả thù Đại Việt khi Hốt Tất Liệt qua đời (1294).

NGUYỄN QUANG TRUNG TIẾN( Đà Nẳng)
Huế, ngày 22 tháng 11 năm 2008
(GiacNgo Online)



11-29-2008 09:23:13

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2011(Xem: 4360)
Hôm nay là 30-4, ngày kỷ niệm chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Năm ngoái, anh đã có một bài trò chuyện với VietnamNet. Năm nay, chúng tôi cũng mời anh tiếp tục chuyện trò như thế, không phải vì một mục tiêu chính trị nào, mà để góp phần vào việc nghiên cứu nghiêm túc các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam cũ, nghiên cứu sử hiện đại. Đề nghị anh nói về phong trào Phật giáo, tuy biết anh rất ngần ngại. Tại sao anh ngần ngại?
25/12/2010(Xem: 7981)
Phật giáo là một tôn giáo được đức Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TCN. Do đạo Phật được truyền đi trong một hơn hay 2500 năm và lan ra nhiều nơi cho nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của nó khá đa dạng về các bộ phái cũng như là các nghi thức và phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, đức Thích Ca, người truyền đạo Phật, đã thiết lập được một giáo hội với các luật lệ hoạt động chặt chẽ của nó. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với các hoàn cảnh chế độ xã hội, con người, và tập tục ở các thời kỳ khác nhau, nên ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
24/12/2010(Xem: 4464)
Phật giáo Việt-Nam trải qua nhiều bước thăng trầm. Đời Lý, Trần Phật giáo cực thịnh, là quốc đạo. Triều Lê Phật giáo bắt đầu suy vi. Đến triều Nguyễn Phật giáo sa sút, mất hẳn vị trí trong chính trị văn hóa và xã hội ở Việt-Nam.
24/12/2010(Xem: 5411)
Nếu ta dở bản đồ thế giới, ta sẽ thấy Á Châu chiếm một vùng đất mênh mông hình mặt trăng lưỡi liềm, hai đầu chỉa về hướng bắc, vòng trong đi theo duyên hải Biển Bắc Cực của xứ Scandinavia và Tây Bá Lợi Á. Vòng ngoài từ đông sang tây là bờ biển Thái Bình Dương Tây Bá Lợi Á qua Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, bán đảo lục địa Ấn Độ, Iran, Tiểu Tế Á đến Âu Châu. Giáp ranh vòng ngoài của mặt trăng lưỡi liềm ấy, tại nhiều nơi, nhưng đứng ngoài, ta thấy các nước Ả Rập, Phi Châu và Mỹ Châu.
18/12/2010(Xem: 14643)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minh và dịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
14/12/2010(Xem: 16310)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập.
25/11/2010(Xem: 23319)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
15/11/2010(Xem: 6546)
Năm 938 Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng kết thúc 1000 năm Bắc thuộc, bắt đầu thời kì tự chủ tiến tới xây dựng nền độc lập cho nước ta. Tuy nhiên tinh thần độc lập của nước Việt không phải bắt đầu từ sau chiến thắng ấy, mà nó đã tồn tại trong suốt thời gian Bắc thuộc, được thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa của bà Trưng, bà Triệu cho đến Phùng Hưng, rõ ràng tinh thần quyết dành độc lập của dân Việt luôn được nuôi dưỡng, chắn chắn đó là đề tài luôn được người dân Việt bàn bạc sau lũy tre làng, trên những cánh đồng hay trong những câu chuyện đêm đêm bên bếp lửa. Tuy nhiên do chưa có một nhà nước để thống nhất các lực lượng, nên đã có nhiều nhóm hoạt động chứ không phải chỉ có phe nhóm của Ngô Quyền,
06/11/2010(Xem: 10075)
Ngày20 tháng tư nhuận năm Quí Mão(11/6/1963) trong một cuộc diễnhành của trên 800 vị Thượng Tọa, Ðại đức Tăng, Ni đểtranh đấu cho chính sách bình đẳng Tôn giáo, cho lá cờ quốctế không bị triệt hạ: tại ngã tư đường Phan Ðình Phùng,Lê Văn Duyệt ( Sài Gòn), lúc 9 giờ sáng, Hòa Thượng QuảngÐức phát nguyện tự tay châm lửa thiêu thân làm ngọn đuốc“ thức tỉnh” những ai manh tâm phá hoại Phật giáo. Dướiđây là tiếng nói tâm huyết cuối cùng của Ngài gửi lạicho đời.
04/11/2010(Xem: 6640)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567