Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lý Thần Tông Kiếp Trước Là Thiền Sư Từ Đạo Hạnh?

26/05/201102:44(Xem: 2575)
Lý Thần Tông Kiếp Trước Là Thiền Sư Từ Đạo Hạnh?

LÝ THẦN TÔNG KIẾP TRƯỚC LÀ THIỀN SƯ TỪ ĐẠO HẠNH?
Lê Thái Dũng

Lê Thái Tổ tên thật là Lê Lợi, người sáng lập lên vương triều Hậu Lê sau khi lật đổ ách đô hộ của giặc Minh. Sự nghiệp của ông thành công có đóng góp không nhỏ của biết bao anh hùng hào kiệt, mưu sĩ quân sư

Chuyện các vị vua nước Việt, có những điều nghe qua tưởng chừng khó tin nhưng lại là chuyện thật và ít người biết.

Lý Thần Tông kiếp trước là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Lý Thần Tông tên thật là Lý Dương Hoán, con của Sùng Hiền Hầu (em ruột Lý Nhân Tông), được Lý Nhân Tông nhận làm con nuôi rồi truyền ngôi cho năm Đinh Mùi (1127).

Sách Đại Việt sử lược cho biết vua Lý Thần Tông chính là hiện thân kiếp sau của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Từ Đạo Hạnh tên thật là Từ Lộ, ông bị Lý Nhân Tông bắt tội khi yểm bùa trong lễ cầu thác sinh có con của vua. Lúc đó Sùng Hiền Hầu đi qua, Từ Lộ đề nghị cứu giúp, “ngày sau xin ngụ thai trong cung để báo đáp công đức này”.

Nghe lời xin tha của Sùng Hiền Hầu, vua miễn tội cho, rồi Từ Lộ về tu ở chùa Thiên Phúc (chùa Thầy, Hà Nội ngày nay). Khi vợ có thai, Sùng Hiền Hầu liền báo tin cho Từ Lộ, ông liền tắm rửa, thay quần áo và bảo học trò rằng: Mối túc nhân của ta chưa hết, phải làm thác sinh lần nữa ở đời, tạm làm đế vương…, dặn xong rồi đọc một bài kệ, sau đó hoá. Đồng thời khi ấy phu nhân Sùng Hiền Hầu sinh con trai, đặt tên là Lý Dương Hoán, đó chính là Lý Thần Tông sau này.

Dương Bình Vương có tới…3.000 người anh em

Dương Bình Vương tên thật là Dương Tam Kha, quê ở làng Ràng, xã Dương Xá, đất Ái Châu (nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hoá, Thanh Hoá), là con trai của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ, thủ lĩnh cuộc kháng chiến chống Nam Hán, giành độc lập cho đất nước năm Tân Mão (931)

Dương Tam Kha lên làm vua đầu năm Ất Tị (945) sau khi cướp ngôi của cháu là Ngô Xương Ngập, ở ngai báu được hơn 5 năm thì bị lật đổ, sau về ở ẩn. Ít ai biết rằng ngoài anh chị em ruột, vị vua này có tới 3000 người anh em khác, đó là vì cha của ông là Dương Đình Nghệ “nuôi con nuôi 3000 người, mưu khôi phục cơ đồ” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Có thể thấy việc nhận con nuôi của Dương Đình Nghệ, trong đó có nhiều người là nghĩa sĩ, thủ lĩnh, thổ hào ở các địa phương chính là phương cách nhằm gắn kết tình cảm, tăng cường sự đoàn kết chống giặc. Cũng vậy mà con của ông là Dương Tam Kha, nếu tính cả anh chị em ruột gồm Dương Nhất Kha, Dương Nhị Kha, Dương Thị Ngọc Thư (vợ Ngô Quyền) và Dương Thị Ngọc Vân thì có đến 3.004 anh chị em.

Lý Huệ Tông 3 lần mới đón được vợ

Nếu như thời Hậu Hán, Lưu Bị phải ba lần hạ mình đến lều tranh để cầu hiền, mời Khổng Minh ra giúp mình thì ở Đại Việt vào cuối triều Lý, vua Lý Huệ Tông cũng mất 3 lần cử người vất vả ra đi nhưng không phải cầu hiền mà là đón vợ về cung.

Thông thường ngay sau khi lên ngôi các vị vua ban chiếu đại xá thiên hạ, giảm hoặc miễn thuế, bổ dụng những đại thần có năng lực để phụ tá…Riêng Lý Huệ Tông thì việc làm đầu tiên là lo cho… mối tình đầu của mình. Ông sai quan phụng ngự đi đón vợ là Trần Thị Dung, người mà ông lấy khi chạy loạn đến đất Lưu Gia (nay thuộc huyện Hưng Nhân, Thái Bình). Tuy nhiên đoàn rước bị nhà gái từ chối. Đó là vào tháng 10 năm Canh Ngọ (1210) vua sai người đi đón vợ về nhưng anh trai của bà là Trần Tự Khánh “không chịu cho đón” (Đại Việt sử lược). Tháng giêng năm Tân Mùi (1211) vua lại sai người đi đón vợ nhưng Trần Tự Khánh cũng không chịu cho em gái về kinh; đến lần thứ ba, vào tháng 2 năm đó quan phụng ngự Phạm Bố mới đưa được bà Trần Thị Dung về Thăng Long.

Vua tự mình đánh trống trận đốc chiến

Vị vua đó là Giản Định Đế (1407-1409). Ông tên thật là Trần Ngỗi, là con cháu nhà Trần, được lực lượng kháng chiến chống quân Minh tôn lên làm vua tháng 10 năm Đinh Hợi (1407), hào kiệt khắp nơi nổi dậy hưởng ứng, uy thế ngày một lớn.

Hoảng sợ trước lực lượng của Giản Định Đế, nhà Minh vội sai tướng Mộc Thạch đem 5 vạn quân sang tăng viện nhằm tiêu diệt nghĩa quân. Ngày 14 tháng 12 năm Mậu Tý (1408) tại bến Bô Cô (nay thuộc xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, Nam Định), một trận ác chiến long trời lở đất đã diễn ra. Hơn hẳn về lực lượng, quân Minh ngày càng chiếm ưu thế, trước tình hình đó Giản Định Đế đã tự mình cầm dùi đánh trống đốc chiến. Quân ta được tăng thêm sĩ khí, ra sức chiến đấu, chém chết nhiều tướng giặc. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư thì trong trận đánh này 10 vạn quân Minh (gồm cả số quân cũ và quân mới tăng viện) bị giết gần hết, tên tướng giặc Mộc Thạch một mình một ngựa thoát chết chạy về thành Cổ Lộng.

Lê Thái Tổ có một người em kết nghĩa dưới gốc thị

Lê Thái Tổ tên thật là Lê Lợi, người sáng lập lên vương triều Hậu Lê sau khi lật đổ ách đô hộ của giặc Minh. Sự nghiệp của ông thành công có đóng góp không nhỏ của biết bao anh hùng hào kiệt, mưu sĩ quân sư; có người đã để lại danh tiếng vang dội như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Lai, Nguyễn Xí, Đinh Lễ… Nhưng trong những người danh tiếng vang dội trên không có ai vinh dự trở thành anh em nghĩa của Lê Lợi. Vinh dự đó lại thuộc về một người ít được sử sách nhắc tới: ông là Nguyễn Tuấn Thiện (sau được mang Quốc tính gọi là Lê Thiện).

Nguyễn Tuấn Thiện quê ở Phúc Dương (nay thuộc huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh), thủ lĩnh đội quân "Cốc Sơn" chống giặc Minh tại quê hương, về sau đem lực lượng ra nhập nghĩa quân Lam Sơn. Thấy ông là người tài giỏi, thông minh, trung thực, có uy tín với dân chúng trong vùng, Lê Lợi rất yêu mến nên đề nghị kết nghĩa anh em. Hai người đã giết ngựa trắng uống máu, cắt tóc ăn thề dưới một gốc cây thị cạnh nhà Nguyễn Tuấn Thiện. Đến nay người dân địa phương vẫn lưu truyền câu thơ: “Cắt tóc, giết ngựa trắng/Dưới gốc thị thề nguyền/Nguyện đồng tâm đồng chí/Phá giặc xây cơ đồ”.

Vua Tự Đức thuở nhỏ đã từng mơ đỗ Trạng nguyên

Vua Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Thì, còn gọi là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm. Từ nhỏ vị vua này đã nổi tiếng là người thông minh, hiếu học, ông rất giỏi Nho học, sử học, triết học, văn học nghệ thuật và đặc biệt là rất sính thơ. Vua đã để lại 600 bài văn, 4.000 bài thơ chữ Hán và khoảng 100 bài thơ chữ Nôm.

Chính vì giỏi văn chương thơ phú mà vua đâm ra tự phụ, có lần đã nói với quần thần rằng: “Trẫm không đi thi, nhưng nếu đi thi, tất sẽ đỗ Trạng nguyên”. Thực ra mong muốn đỗ Trạng nguyên của vua có từ hồi rất nhỏ nhưng ông đã quên mất điều đó và chỉ nhớ ra khi mẹ vua là bà hoàng Từ Dũ nhắc lại. Trong bài văn “Khiêm cung ký” do Tự Đức viết để cho khắc trên bia đá đặt ở lăng mộ của chính mình, ông cũng nhắc tới chuyện này: “Lúc biết nói, biết đi, ta từng cầm than viết lên tường. Có kẻ lấy làm lạ hỏi, ta đáp đó là chữ Trạng, vì đỗ đầu Tấn sĩ, tục gọi là Trạng nguyên. Đó là việc ngày nay mẹ ta thuật lại”.

Vua Khải Định gửi ngọc khánh tặng Giáo hoàng La Mã

Trong chuyến xuất dương sang thăm nước Pháp năm Nhâm Tuất (1922), vua Khải Định đã gửi tặng Giáo hoàng ở Vatican một món quà do một đại thần chuyển đến. Theo sách Khải Định chính yếu sơ tập món quà là một chiếc ngọc khánh kèm theo một bức thư có nội dung như sau: “Giáo hoàng là chủ của một tôn giáo, dân bản quốc có rất nhiều người tín mộ. Nay quả nhân giá ngự sang triều đình Đại Pháp để bày tỏ tình hữu hảo ngày trước. Quan đại thần đi theo hộ giá là Đông các Đại học sĩ, Phúc Môn bá Nguyễn Hữu Bài có xin phép được sang quý thành để chiêm bái Thánh tích, nhân đó đặc biệt ủy mệnh mang sang tặng cho Giáo hoàng một chiếc Ngọc khánh hạng cực đại cùng với dây đeo làm kỷ niệm để bày tỏ tấm tình”.

Xét danh sách các Giáo hoàng La Mã thì vị Giáo hoàng được vua Khải Định tặng quà là Giáo hoàng Pius XI (tên thật là Achille Ratti).

Lê Thái Dũng (bee.net.vn)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2015(Xem: 9893)
Thời gian chỉ là một khái niệm vô hình vô ảnh của nhân loại ; nhưng nó có thể được biểu hiện bởi sự chia chẻ tính đếm qua giây, phút, khắc, giờ, ngày, tuần, tháng, quý, năm, thế kỷ, thiên kỷ. . . và qua sự biến đổi, di dịch, của vật thể và sinh loại trong không gian. Như vậy, tuy vô hình, thời gian cũng để lại vết tích của nó qua các dữ kiện, sự kiện được ghi lại trong sử liệu của số đông, hoặc chỉ là những dấu ấn kỷ niệm trong tâm thức mỗi cá nhân—trong đó, bao gồm tất cả những thành tựu vinh quang hay thất bại đầy tủi nhục của những con người và tập thể trần gian mà họ tùy thuộc, tương thuộc
29/09/2015(Xem: 6627)
Những chế độ độc tài chuyên nghiệp như đảng CSVN không hề sơ hãi những cá nhân chống đối. Cái mà họ sợ là những cá nhân kết hợp thành tổ chức (hoặc hội đoàn) để chống đối. Khi người cộng sản khống chế xã hội dân sự qua điều 4 hiến pháp, thì họ không những cấm đoán sự hình thành của những tổ chức độc lập, mà họ còn thành lập những tổ chức cuội, của chính họ, để phô trương một xã hội dân sự giả tạo, và xâm nhập mọi cơ sở kinh tế hay xã hội khác, để kiểm soát và điều hướng.
24/07/2015(Xem: 8076)
Bài tiểu luận "Ảnh hưởng Phật giáo trong pháp luật triều Lý" đã được viết vào tháng giêng năm 1971 tại Saigon. Tạp chí Từ Quang đã đăng từ số 225 đến 258 (từ tháng 6 đến 9 năm 1974). Tạp chí Từ Quang là Cơ quan truyền bá đạo Phật của Hội Phật Học Nam Việt, trụ sở ở chùa Xá Lợi tại Saigon (bên hông trường Gia Long cũ), do cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, cố Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hoá thời Đệ Nhị Cộng Hoà miền Nam, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Sau khi cụ Mai Thọ Truyền qua đời thì cụ Minh Lạc Vũ Văn Phường làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Tôi xin trân trọng cống hiến quý độc giả Đặc San Chánh Giác của Chùa Hoa Nghiêm ở Toronto. Toronto, ngày 01 tháng 04 năm 1991 NVT
06/07/2015(Xem: 11692)
(Bài này được trích dịch từ tài liệu có tên “Những Giới Hạn Trong Các Vùng Biển” (Limits In The Seas) mang số 143 với tựa đề “Trung Quốc: Tuyên Bố Chủ Quyền Biển Trong Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)” (China: Maritime Claims In The South China Sea) được Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Vùng Cực (Office of Ocean and Polar Affairs), Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Môi Trường và Khoa Học Quốc Tế (Bureau of Ocean and International Environmental and Scientific Affairs) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (US Department of State) công bố ngày 5 tháng 12 năm 2014 – (Nguồn: http://www.state.gov/documents/organization/234936.pdf ). Mục đích của nghiên cứu này là để xem xét tuyên bố về biển và/hay các biên giới của Bộ Ngoại Giao và đánh giá sự phù hợp với luật quốc tế. Nghiên cứu này đại diện quan điểm của Chính Phủ Hoa Kỳ chỉ đối với những vấn đề đặc biệt được thảo luận trong đó và không nhất thiết phản ảnh sự chấp thuận những giới hạn được tuyên bố. Các phân tích gia chính cho nghiên cứu này là Kevin Baumert
27/04/2015(Xem: 8859)
Tờ Thời Luận San Francisco (San Francisco Chronicle) một nhật báo lớn của Mỹ, ngày 17 tháng 9 năm 2008 có đăng một bài mang tựa: "Đạo Ki-tô đang phát triển nhanh chóng ở Mông Cổ, các nhà truyền giáo đã cải đạo cho hàng nghìn người trong khi những người Phật Giáo đang nơm nớp lo sợ là truyền thống văn hóa của mình sẽ bị mất đi" (Christianity growing fast in Mongolia, Missionaries convert thousands while Buddhists fear losing traditional culture), tác giả là Michael Khon một ký giả trong nhóm bình luận gia thời sự quốc tế trong ban biên tập của tờ báo này. Bài báo khá xưa, cách nay đã hơn sáu năm, thế nhưng cũng không hẳn là lỗi thời, bởi vì tình trạng trên đây chẳng những vẫn còn đang tiếp diễn ở Mông Cổ mà cả nhiều nơi khác trên thế giới. Bài báo cũng đã được một trang mạng Phật Giáo có tầm cỡ quốc tế với 9 thứ tiếng khác nhau là Buddachannel dịch sang tiếng Pháp và đăng tải ngày 6 tháng 2 năm 2009, với tựa ngắn hơn: "Phật Giáo Mông Cổ đang bị mất đà" (Le Bouddhisme Mongol en perte de
06/04/2015(Xem: 6456)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”[1] cho thấy tại Giao Châu lúc bấy giờ, đã là một lãnh địa hùng cứ ở phương Nam không thua kém gì nước Tàu tại phương Bắc. Sử gia Lê Mạnh Thát nhận định về điều này như sau trong bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam:
10/01/2015(Xem: 4751)
Trung tâm Văn hóa Phật giáo ở Huế, còn gọi là Trung tâm Liễu Quán, nằm bên hữu ngạn sông Hương, được thành lập từ mấy chục năm nay. Sau năm 1975, Nhà nước quản lý mãi cho đến gần hai mươi năm sau mới giao quyền lại cho Tỉnh hội Phật giáo Huế, bấy giờ chỉ là một ngôi nhà… không thể coi là một trụ sở văn hóa Phật giáo được. ta t
07/11/2014(Xem: 27705)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
17/08/2014(Xem: 20446)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
04/05/2014(Xem: 7734)
Bác sĩ người Đức Erich Wulff (1926-2010) dạy tại trường Ðại học Y khoa Huế 1961-1967, trong khuôn khổ viện trợ giáo dục của Tây Ðức. Vì một sự tình cờ, tác giả đã chứng kiến biến cố tại Ðài Phát thanh Huế đêm 8/5/1963 làm 8 Phật tử bị chết một cách thê thảm và đã trình bày sự kiện này trước Ủy ban điều tra đàn áp Phật giáo Việt Nam của Liên hiệp quốc vào tháng 9/1963.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567