Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một nhà sư 40 năm chở đất ra đảo xây chùa

19/06/201312:32(Xem: 4718)
Một nhà sư 40 năm chở đất ra đảo xây chùa


Một nhà sư

40 năm chở đất ra đảo xây chùa


Suốt hơn 40 năm qua, ngày nào hòa thượng Thích Viên Mãn cũng chở nước và đất từ đất liền ra đảo, rồi gánh nước trên vai, tay chống gậy, tay kia giữ quai thùng, bàn chân trần dẫm lên phiến đá nóng bỏng chuyển đến nơi cần thiết...


Hoàng hôn đổ bóng xuống bãi biển Nha Trang. Mặt trời lơ lửng cuối chân trời như một quả cam hồng lớn. Du khách phóng tầm mắt ra phía biển cả mênh mông. Những tia nắng cuối cùng chiếu vào đảo, sắc đá ánh lên màu đỏ rực kỳ ảo. Vì vậy, người ta gọi hòn đảo đó là đảo Hòn Đỏ.


Trên hòn đảo đó có một ngôi chùa mang tên Từ Tôn. Ngôi chùa đó không có gì đặc biệt ngoài việc nó ở giữa biển, nhưng cuộc đời của vị hòa thượng dưới mái chùa đó là một câu chuyện kỳ lạ, đầy nghị lực của con người.


Cảnh tiên giữa biển


Hòn đảo đỏ rực mỗi buổi chiều, trồi lên giữa sắc biển xanh bao la, đẹp như một bức tranh. Du khách dạo trên bãi biển cũng phải dừng chân ngắm nhìn vài phút thiên thần đó.


Chiếc ghe máy nổ phành phạch cưỡi trên đầu những con sóng bạc, rồi lựa sóng tìm chỗ đỗ để chúng tôi bước chân lên đảo Hòn Đỏ. Nhìn từ xa, chỉ thấy ánh đá đỏ rực, nhưng càng tiến lại gần, càng thấy xanh ngắt màu cây lá lẫn trong kẽ những khối đá khổng lồ to bằng những ngôi nhà cao tầng nằm lăn lóc.


Bước lên đảo từ phía Tây, vạch những lùm dây gai, cả một vườn bằng lăng hiện ra. Nổi bật là một cây bằng lăng tím ngát hoa, mọc trong một cái thuyền thúng. Chiếc thuyền thúng này là phương tiện mà hòa thượng Thích Viên Mãn dùng để chở đất và nước từ đất liền ra đảo. Ông trồng cây vào chiếc thuyền này để làm kỷ niệm. Cả vườn xoài ẩn sau những khối đá lớn tránh gió.


Đặc biệt nhất là cây mai 6 nhánh vươn cao mà theo sư thầy Chúc Minh thì cây mai này đã ở trên đảo từ khi thầy có mặt. Cây mai mọc trong kẽ đá và chỉ ra hoa đúng vào ngày rằm tháng tư. Theo các nhà khoa học, đây có thể là giống mai rừng, được các loài chim di trú mang đến.


Con đường xếp đá quanh co, dưới những tán cây hoa sứ, thông, huyết giác, thiên tuế... dẫn du khách đến ngôi chùa Từ Tôn. Xung quanh chùa có rất nhiều khu vườn hoa với những giò phong lan lúc lỉu, những bụi cúc vàng rực rỡ. Ngôi chùa Từ Tôn khá nhỏ và cực kỳ đơn sơ.


Tuy nhiên, trước chùa có một quả đại hồng chung với những họa tiết bằng chữ Phạn rất sắc nét. Trên chuông khắc nhiều bài thi kệ “nguyện tiếng chuông này siêu pháp giới”.


Vườn tượng Lâm Tì Ni ở trước chùa với 13 bông sen, diễn tả huyền thoại khi Đức Phật ra đời đã biết đi, mỗi bước để lại một bông sen dưới chân ngài. Phía Đông hòn đảo, là tượng thánh mẫu Bồ Tát Quán Thế Âm đứng trên Nghênh Phong Đài nhìn ra biển lớn “độ” cho những sinh linh kiếm sống trên đầu sóng dữ. Dưới chân tượng, một bãi đá tãi ra biển với hai bên tả hữu như thế thanh long, bạch hổ.


Bên trái có Hòn Án, Hòn Thư như một con triện và một khối sách. Chen vào giữa là bàn cờ tiên, nơi ngày xưa các ông tiên thường xuống đánh cờ. Sau Hòn Thư là “Hòn Chị, Hòn Em” đang nâng đỡ nhau. Phía dưới những khối đá lớn là những mảnh “vườn tiên”, với vườn nhãn, vườn thông, vườn hoa giấy, vườn bồ đề...


Trong những khu vườn bồng lai trên rặng đá đó, tiếng chim ca ríu rít xen với tiếng sóng vỗ hườm đá ì oạp. Du khách có thể ngồi trên những tảng đá sạch sẽ ngắm biển, đón gió mỗi chiều trong tâm trạng không còn lưu luyến gì đến cảnh hồng trần. Thật là một cảnh Phật ở trần thế!


Khách tham quan được chiêm ngưỡng cảnh tiên giữa biển cả đều không biết rằng, mấy chục năm trước, hòn đảo này chỉ có những khối đá khổng lồ, không thấy bóng cây, ngọn cỏ. Vị hòa thượng gầy gò chiều chiều ngồi trước hiên chùa ngóng ra biển, nhìn hành vân lưu thủy, không mấy khi nói cười chính là người đã cống hiến tất cả sức lực và tuổi trẻ, đằng đẵng 48 năm lao động, chở đất, chở nước từ đất liền ra đảo mới có được một cảnh tiên để lại cho đời như ngày hôm nay.


48 năm “chiến đấu” với thiên nhiên


Đã 79 tuổi, dáng người nhỏ nhắn, gày gò, song hàng ngày hòa thượng Thích Viên Mãn vẫn cùng các đệ tử dọn cỏ, tưới cây trên đảo. Cả đời ông làm việc cực nhọc, máu và mồ hôi đã đổ không biết bao nhiêu xuống hòn đảo này, song trông ông không toát lên vẻ khổ ải. Dáng đi vẫn nhanh nhẹn, linh hoạt.


Ông bảo, với ông, lao động chính là một dạng thiền. Các bậc đại giác cũng đã đắc đạo trong khi lao động tầm thường như giã gạo, gánh nước, chẻ củi... Ông muốn, mỗi du khách khi bước chân lên hòn đảo này đều cảm nhận thấy chất thiền ở từng gốc cây, ngọn cỏ.


Hòa thượng Thích Viên Mãn sinh ra ở vùng đất nắng gió Phú Yên, từ nhỏ đã đi tu khổ hạnh theo phái Mật Tông tại chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa trên núi Sơn Trung (Khánh Hòa). Đây là ngôi chùa rất nổi tiếng, từng được Thái hậu Từ Cung, mẹ Vua Bảo Đại qua lại nhiều lần. Bà từng trồng cây đại trước chùa, đến nay vẫn còn.


Một ngày đầu năm 1960, đứng trên đỉnh Sơn Trung nhìn về hướng Đông, ông giật mình khi thấy ánh hồng hình đóa sen rực lên giữa biển. Ông liền rời núi, tiến về phía biển và thấy ánh hồng bao trùm hòn đảo nhỏ dần biến mất khi mặt trời lặn xuống bên kia đỉnh Sơn Trung. Thấy lạ ông tính chuyện ra đảo tu tập.


Mặc dù là trụ trì chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa, song hòa thượng Thích Viên Mãn vẫn quyết chí ra đảo, vì chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa du khách đến nhiều, phá vỡ không gian chay tịnh của chùa. Hơn nữa, ông tu tập theo phái Mật Tông, nên cần không gian tĩnh lặng tuyệt đối. Thế là tay gậy, tay bị với những cuốn kinh, ông rời núi Trung Sơn, đi về phía Hòn Đỏ.


Ngày đó, cả khu vực còn hoang sơ. Hòa thượng men theo ven biển đến bãi tha ma an táng những người đi biển bị nạn. Cạnh bãi tha ma có 3 túp lều. Anh Sáu Sài Gòn chèo thuyền đưa hòa thượng ra đảo. Nghe tâm nguyện hòa thượng muốn ra đảo sống, anh Sáu buồn cười.


Hàng ngày đi biển qua hòn đảo, nhưng anh ít lên đảo, vì trên đảo không có nước, không có cây xanh, chỉ có những khối đá khổng lồ lổn nhổn nhô lên từ đáy biển. Cả ngày đảo đá phơi mình dưới nắng gắt khiến không gian trên đảo hừng hực nóng. Anh Sáu bảo, nếu sống ở đảo một ngày, chắc cơ thể sẽ biến thành... cá khô.


Hòa thượng Thích Viên Mãn cải tạo một hốc đá thành hang, căng bạt che làm nơi trú nắng, trú mưa, rồi chở nước, lương thực ra dự trữ, chuẩn bị cuộc chiến lâu dài với thiên nhiên khắc nghiệt.


Công cụ lao động của ông chỉ là một chiếc búa, một chiếc xà beng và một chiếc thuyền mủng dùng để đi về.


Hàng ngày, đều đặn từ 6 giờ sáng, khi mặt trời mới nhô lên từ mặt biển, ông nhặt những tảng đá nhỏ đổ vào hõm, hố, rồi dùng búa, xà beng đẽo gọt những tảng đá to, để tạo mặt bằng. Chỉ riêng công việc san lấp mặt bằng để dựng đủ một ngôi chùa, ông đã mất đúng 5 năm làm việc cật lực, ngày nào cũng như ngày nào, cứ đày lưng dưới nắng từ sáng đến đêm khuya.


Hai bàn tay ông chai sần vì vần đá. Khắp người loang lổ vì nắng cháy, miệng khô rộp, da bong từng mảng. Lao động nặng nhọc như vậy, nhưng mỗi ngày hòa thượng Thích Viên Mãn chỉ ăn duy nhất một bữa, đúng vào giờ ngọ. Đồ ăn chính của ông cũng rất đặc biệt, chỉ là các loại rong rêu mọc ở mép đá như rong rau câu, rong đồng mứt, rong chân vịt... mọc ở vách đá hoặc bị sóng biển hắt lên vách đá từng mảng một.


Những ngày ở đảo, tôi đã được hòa thượng Thích Viên Mãn mời bữa cơm chay với món rong rêu. Thú thực, thứ rong này rất nhạt nhẽo, lại có mùi tanh, đắng và chát, rất khó nuốt. Thấy mặt tôi hết co lại giãn khi nhai rong, hòa thượng bảo rằng, trong lúc ăn, nếu lòng ta không nghĩ đến chất ngon, vị ngọt thì miệng nhai nhánh rong đắng cũng giống như nhai một cọng rau muống vậy!


“Khi ta chấp nhận sự khổ cực thì khổ cực sẽ vơi đi, khi ta không nhớ đến sự khổ cực, thì khổ cực sẽ biến mất giữa lòng ta” – hòa thượng triết lý với tôi như vậy.


Có được mặt bằng rồi, hòa thượng Thích Viên Mãn dựng một ngôi chùa nhỏ, rộng độ 25m2, làm nơi tu thiền. Tường chùa được xếp bằng những tảng đá do ông đẽo gọt và cột kèo là 8 chiếc cọc tre. Mái lợp bằng lá. Trong chùa chỉ có một tấm hình Phật tổ được lồng kính trang nghiêm, một lư hương bằng đất nung, một cây đèn dầu, một cái chuông, cái mõ và những cuốn kinh.


Nhưng để biến hòn đảo thành nơi có sự sống, ông tiếp tục lao động không ngừng.


Hàng ngày, ông dậy sớm, chèo thuyền vào đất liền, đóng đất vào bao, vác xuống thuyền rồi chèo ra đảo. Hồi đầu, chưa có kinh nghiệm, ông cứ đổ đất lên các hốc đá. Nhưng rồi, mùa mưa đến, vài trận mưa rào tầm tã, xối hết cả đất xuống biển, đảo lại trơ ra toàn đá. Bao nhiêu mồ hôi đổ hết xuống biển cả.


Không chịu khuất phục, ông nghĩ ra cách chống lại hiện tượng xói mòn. Ông dùng nilon bít tất cả những khe đá lại rồi đổ đất vào. Cứ mỗi lớp đất, lại xếp lên trên một lớp đá, rồi dùng đá xây kè thành tường chung quanh với những lỗ nhỏ ngoằn ngoèo làm dòng nước chảy chậm, đất ít bị cuốn đi. Tạo được mảnh đất nào, ông lập tức trồng cây rồi bê đá xếp thành tường cao để chống gió biển. Ông còn trồng khoai lang, sắn và các loại rau quả trong các giỏ đất xếp trên mặt các tảng đá để có thứ ăn.


Quá trình chăm sóc cây cối vô cùng vất vả. Ông phải chèo thuyền thúng về đất liền, gánh từng xô nước, đổ đầy thuyền rồi chở ra đảo để tưới cây. Cứ tưới được một lúc, nắng nóng và gió biển thổi mạnh lại khô ro, nứt nẻ, do đó, phải tưới nước liên tục nhiều lần một ngày. Cây cối mọc lên, rễ tua tủa, tỏa bóng mát, vừa chống xói mòn đất, lại cản được gió biển.


Tôi hỏi: “Tổng cộng có bao nhiêu năm hòa thượng gánh đất, gánh nước ra hòn đảo này?”. Ông lẩm nhẩm tính và bảo rằng, trừ 5 năm phá đá, dựng chùa, đến nay đã có 40 năm một mình ông liên tục chở đất từ đất liền ra hòn đảo hoang này.


Ngày nay, dạo bước trên hòn đảo tiên cảnh này, con người trần tục chúng ta khó mà tưởng tượng nổi vì sao một con người nhỏ bé, gầy guộc kia có thể làm được việc đó.


Nhà văn Quách Giao, người thân thiết với hòa thượng từ ngày mới ra đảo kể: Suốt hơn 40 năm qua, ngày nào hòa thượng Thích Viên Mãn cũng chở nước và đất từ đất liền ra đảo, rồi gánh nước trên vai, tay chống gậy, tay kia giữ quai thùng, bàn chân trần dẫm lên phiến đá nóng bỏng chuyển đến nơi cần thiết. Không ít lần, ông bị trượt chân, ngã lăn lông lốc xuống vách đá bất tỉnh nhân sự. Những giọt nước quý hiếm đổ xuống đá chỉ một loáng đá bốc hơi sạch...


Khổ nhất là những ngày biển động. Những cơn sóng bạc đầu lật úp cả thuyền đất, dìm vị hòa thượng gầy gò xuống biển. Ông còn nhớ chiều ngày 14/10/1972 (âm lịch), khi đang chở nước từ đất liền ra đảo, một cơn lốc từ đất liền thổi ra, lật úp thuyền. Hòa thượng chỉ còn biết bấu vào miếng xốp mang theo (ông dùng miếng xốp khá lớn thay phao cứu hộ, đề phòng khi thuyền lật). Gió thổi mỗi lúc một mạnh, miếng xốp kéo ông mỗi lúc thêm xa bờ.


Qua một đêm vật lộn với sống biển, sáng ra, không còn thấy hòn đảo nào cả, bốn bề chỉ là biển xanh thăm thẳm với sóng lớn dập dềnh. Sau 3 ngày, 3 đêm lênh đênh trên biển, khi chuẩn bị đổ xuống vì kiệt sức thì gặp tàu viễn dương của Nhật Bản. Được uống nước, ông dần tỉnh lại. Trên người lúc đó chỉ còn mỗi chiếc quần đùi. Những thủy thủ người Nhật này chuyển ông cho tàu đánh cá Việt Nam và họ chở ông về đảo Hòn Đỏ để ông tiếp tục con đường đến cõi Niết bàn.


Dạo bước trên đảo Hòn Đỏ được phủ kín bởi cây xanh và những vườn hoa rực rỡ sắc màu thật khó có thể tin rằng, 50 năm trước, nó là một đảo hoang chỉ có đá là đá. Giờ đây, trên đảo bốn mùa cây trái đơm hoa.


Hòa thượng Thích Viên Mãn còn kỳ công ra Yên Tử chiết cành đại 700 tuổi về trồng để mong thấy được bóng Phật.


Kỳ công nhất là vườn xoài tượng 14 cây ở giữa đảo. Đây là giống xoài ngày trước dùng để tiến vua, hiện chỉ còn ở khuôn viên chùa Từ Quang (Phú Yên). Ông phải gieo hạt vào giỏ đất, rồi khoét núi đá sâu 1m, đổ đất, trồng cây vào, chúng mới sống được và cho trái. Trái xoài nhỏ, ăn có vị ngọt ngọt, chua chua và vị mặn, có lẽ do nước biển.


Tăng ni phật tử bốn phương về viếng cảnh chùa, ăn trái xoài thấy vị mặn mà nghĩ rằng mồ hôi hòa thượng Thích Viên Mãn đã đổ xuống gốc xoài để xoài đơm hoa kết trái.


Giờ đây, ngôi chùa nhỏ trên đảo này đã có thêm 4 đệ tử. Hòa thượng Thích Viên Mãn đã giao quyền trụ trì lại cho đệ tử là Đại đức Thích Chúc Minh. Tăng chúng đã đóng góp cho nhà chùa để mua chiếc máy bơm nước, với hệ thống ống dẫn nước kéo từ đất liền ra để các sư đỡ cực nhọc. Mùa khô, gió biển vẫn thổi rất khốc liệt, trụi hết lá cây, nên phải tưới nước liên tục. Mấy đệ tử phải thay nhau cầm vòi tưới nước suốt ngày đêm.


Theo thầy Chúc Minh, phải tưới liên tục 3 ngày 4 đêm mới hết đảo, nhưng tưới đến cuối đảo, thì phía đầu đã lại khô trắng. Trung bình mỗi tháng, hòn đảo sử dụng 1.000m3 nước để tưới cây. Nếu một người làm việc với máy tưới nước cũng không xuể, vậy mà từ mấy chục năm nay, hòa thượng Thích Viên Mãn chỉ với chiếc thuyền, đòn gánh và hai chiếc thùng cùng mồ hôi và tâm huyết, đã mang lại sự sống cho hòn đảo này.


Rời đảo Hòn Đỏ với ngôi chùa Tự Tôn giữa cảnh bồng lai nơi biển cả, hòa thượng Thích Viên Mãn tiễn tôi xuống tận bến thuyền. Từng đoàn khách du lịch thong thả lên đảo thưởng ngoạn thành quả lao động mấy chục năm của một nhà sư kỳ lạ. Không hiểu vị hòa thượng này đã đắc đạo nhờ lao động thay vì nhập thất tụng kinh hay chưa, nhưng nhìn vào thành quả mà ông gây dựng, tôi tin rằng ông đã tìm thấy cõi Niết bàn cho mình.



---o0o---

Chùa Từ Tôn

---o0o---

Các Ngôi Chùa ở Khánh Hòa

---o0o---

Ảnh: Thích Chúc Minh - Tâm Nhẫn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/04/2014(Xem: 10570)
Chào mừng Đại lễ Phật Đản Vesak LHQ 2014 tổ chức tại Việt Nam, được sự hỗ trợ của Ban thư ký Đại lễ Vesak, một ê kíp gồm nhiều đạo diễn, quay phim kỳ cựu của Truyền hình An Viên (AVG) đã thực hiện bộ phim tài liệu 10 tập có nhan đề "Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc".
24/03/2014(Xem: 23890)
Nói đến chùa Thiên Ấn không ai còn lạ về ngôi chùa này, một thắng tích được xem là “đệ nhất thắng cảnh„ cách trung tâm 3,5km (độ 10 phút xe hơi) nằm ở tả ngạn sông Trà Khúc của thành phố Quảng Ngãi.
12/01/2014(Xem: 5201)
Mở đầu cuốn Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam, Quyển 1, nhà sử học Phạm Cao Dương viết: Dù sống tản mác ở bất cứ phương trời nào, trong bất cứ quốc gia nào hay ở chính quốc, người Việt Nam đều thuộc về một dân tộc thuần nhất, có chung một nguồn gốc, một quá khứ và những ước vọng chung về một ngày mai tươi đẹp huy hoàng.
12/01/2014(Xem: 4067)
Trước khi Phật Giáo truyền vào Việt Nam trong khoảng một hoặc hai thế kỷ trước Tây Lịch, trên mảnh đất nằm ở phía đông nam của Châu Á trông ra Biển Thái Bình bao la này đã có một dân tộc Lạc Hồng hiện hữu. Như thế nói theo ngôn ngữ khoa học, trong dòng máu của người Phật tử Việt Nam có hai nhiễm sắc thể: Người Việt Nam và người Phật tử. Trên danh nghĩa là hai yếu tính, nhưng thực tế đó chỉ là cuộc sống của một người, một người Phật tử Việt Nam.
25/12/2013(Xem: 8003)
Được tin trễ, hội thảo Hoằng pháp toàn quốc 2011, tổ chức tại Bình Dương, nên chúng tôi không chuẩn bị kịp để tham dự. Rất tiếc cho việc thiếu cơ duyên của mình. Qua bài tham luận mang tính chủ quan nhưng có đủ bằng chứng cụ thể và đã được thí nghiệm nhiều lần ở nhiều nơi, nên chúng tôi có thể khẳng định “Ba giờ huấn luyện, 10 ngày hoằng hóa, đưa Phật pháp đến nông thôn”. Trước lúc trình bày phương cách, chúng tôi xin có vài nhận xét nhỏ nhưng cần thiết:
25/12/2013(Xem: 9682)
Cũng tại hội trường nầy và vào tháng nầy năm năm trước, tôi hân hạnh được Giáo hội mời dự Ðại hội Phật giáo toàn quốc và đọc tham luận để trình bày một vài nét đặc thù về hiện tượng Phật giáo đang nở rộ cùng khắp bầu trời Âu Mỹ, nơi vốn có một truyền thống lâu đời của Kitô giáo. Trong bài tham luận, tôi cũng góp ý là Giáo hội nên kiện toàn cơ cấu tổ chức và điều hành để đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Giáo hội phải là một tập hợp gồm cả bốn chúng, chứ không thể chỉ có một chúng như cái ghế chỉ có một chân không tự đứng vững được nói gì đến phát triển.
25/12/2013(Xem: 7134)
Kỹ niệm 1000 năm Thăng Long, thiết nghĩ, không hoàn toàn chỉ giới hạn trong việc kỹ niệm quyết định của vua Lý Thái Tổ đời đô từ Hoa Lư về Thăng Long mà còn cần kỹ niệm những tinh hoa siêu việt đặc thù của hai thời đại Lý Trần, một thời đại vẽ vang, oanh liệt và thịnh trị chưa từng có trong lịch sử nước nhà hơn ngàn năm trước. Đặc biệt là kỳ tích nước Đại Việt đánh thắng quân Nguyên Mông, một đạo quân bách chiến bách thắng thống lĩnh cả thiên hạ, không những một lần mà đến ba lần. Bài nầy cố gắng nêu lên một số đặc điểm tiêu biểu của thời Lý Trần để từ đó chúng ta có thể hãnh diện, một cách có thực, việc kỹ niệm một thời đại vàng son hiếm thấy trong lịch sử Đại Việt.
25/12/2013(Xem: 9829)
Thật là một hân hạnh lớn cho chúng tôi hôm nay được về tham dự Đại hội kỳ V của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Thật vậy, từ ngàn dặm xa xôi mà được về thăm quê hương đã là một điều hạnh phúc, lại được phép trình bày một số thao thức của một người con Phật trước những người đồng đạo mà cũng là đồng bào cùng chung một ước mơ, thì thật là một cơ duyên hiếm có.
01/12/2013(Xem: 2895)
Như quí vị đã biết, trước hết tôi là một tu sĩ Phật Giáo, hoằng pháp độ sanh là sứ mệnh thiêng liêng của người tu hành. Sứ mệnh thiêng liêng đó không ngoài đường phục vụ con người và xã hội mà nhà sư đang sống trong cõi đời ta bà khổ lụy nầy!
01/12/2013(Xem: 8102)
Bài hát này người viết thực hiện vào năm 1994, khi đó là lúc kỷ niệm tròn mười năm Hòa Thượng viên tịch. Như vậy tình đến nay, bài hát đã được 19 tuổi. Bài hát được nghệ sĩ út Bach Lan dàn dựng một năm sau đó và nghệ sĩ Thanh Ngân thể hiện rất xuất sắc. Xin mời quý vị nghe lại bài ca năm ấy, một chút lặng lòng tưởng nhờ một công hạnh to lớn. Bài ca mang tên CÔNG HẠNH LƯU ĐỜI. (đính kèm mp3).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567