Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một nhà sư 40 năm chở đất ra đảo xây chùa

19/06/201312:32(Xem: 5159)
Một nhà sư 40 năm chở đất ra đảo xây chùa


Một nhà sư

40 năm chở đất ra đảo xây chùa


Suốt hơn 40 năm qua, ngày nào hòa thượng Thích Viên Mãn cũng chở nước và đất từ đất liền ra đảo, rồi gánh nước trên vai, tay chống gậy, tay kia giữ quai thùng, bàn chân trần dẫm lên phiến đá nóng bỏng chuyển đến nơi cần thiết...


Hoàng hôn đổ bóng xuống bãi biển Nha Trang. Mặt trời lơ lửng cuối chân trời như một quả cam hồng lớn. Du khách phóng tầm mắt ra phía biển cả mênh mông. Những tia nắng cuối cùng chiếu vào đảo, sắc đá ánh lên màu đỏ rực kỳ ảo. Vì vậy, người ta gọi hòn đảo đó là đảo Hòn Đỏ.


Trên hòn đảo đó có một ngôi chùa mang tên Từ Tôn. Ngôi chùa đó không có gì đặc biệt ngoài việc nó ở giữa biển, nhưng cuộc đời của vị hòa thượng dưới mái chùa đó là một câu chuyện kỳ lạ, đầy nghị lực của con người.


Cảnh tiên giữa biển


Hòn đảo đỏ rực mỗi buổi chiều, trồi lên giữa sắc biển xanh bao la, đẹp như một bức tranh. Du khách dạo trên bãi biển cũng phải dừng chân ngắm nhìn vài phút thiên thần đó.


Chiếc ghe máy nổ phành phạch cưỡi trên đầu những con sóng bạc, rồi lựa sóng tìm chỗ đỗ để chúng tôi bước chân lên đảo Hòn Đỏ. Nhìn từ xa, chỉ thấy ánh đá đỏ rực, nhưng càng tiến lại gần, càng thấy xanh ngắt màu cây lá lẫn trong kẽ những khối đá khổng lồ to bằng những ngôi nhà cao tầng nằm lăn lóc.


Bước lên đảo từ phía Tây, vạch những lùm dây gai, cả một vườn bằng lăng hiện ra. Nổi bật là một cây bằng lăng tím ngát hoa, mọc trong một cái thuyền thúng. Chiếc thuyền thúng này là phương tiện mà hòa thượng Thích Viên Mãn dùng để chở đất và nước từ đất liền ra đảo. Ông trồng cây vào chiếc thuyền này để làm kỷ niệm. Cả vườn xoài ẩn sau những khối đá lớn tránh gió.


Đặc biệt nhất là cây mai 6 nhánh vươn cao mà theo sư thầy Chúc Minh thì cây mai này đã ở trên đảo từ khi thầy có mặt. Cây mai mọc trong kẽ đá và chỉ ra hoa đúng vào ngày rằm tháng tư. Theo các nhà khoa học, đây có thể là giống mai rừng, được các loài chim di trú mang đến.


Con đường xếp đá quanh co, dưới những tán cây hoa sứ, thông, huyết giác, thiên tuế... dẫn du khách đến ngôi chùa Từ Tôn. Xung quanh chùa có rất nhiều khu vườn hoa với những giò phong lan lúc lỉu, những bụi cúc vàng rực rỡ. Ngôi chùa Từ Tôn khá nhỏ và cực kỳ đơn sơ.


Tuy nhiên, trước chùa có một quả đại hồng chung với những họa tiết bằng chữ Phạn rất sắc nét. Trên chuông khắc nhiều bài thi kệ “nguyện tiếng chuông này siêu pháp giới”.


Vườn tượng Lâm Tì Ni ở trước chùa với 13 bông sen, diễn tả huyền thoại khi Đức Phật ra đời đã biết đi, mỗi bước để lại một bông sen dưới chân ngài. Phía Đông hòn đảo, là tượng thánh mẫu Bồ Tát Quán Thế Âm đứng trên Nghênh Phong Đài nhìn ra biển lớn “độ” cho những sinh linh kiếm sống trên đầu sóng dữ. Dưới chân tượng, một bãi đá tãi ra biển với hai bên tả hữu như thế thanh long, bạch hổ.


Bên trái có Hòn Án, Hòn Thư như một con triện và một khối sách. Chen vào giữa là bàn cờ tiên, nơi ngày xưa các ông tiên thường xuống đánh cờ. Sau Hòn Thư là “Hòn Chị, Hòn Em” đang nâng đỡ nhau. Phía dưới những khối đá lớn là những mảnh “vườn tiên”, với vườn nhãn, vườn thông, vườn hoa giấy, vườn bồ đề...


Trong những khu vườn bồng lai trên rặng đá đó, tiếng chim ca ríu rít xen với tiếng sóng vỗ hườm đá ì oạp. Du khách có thể ngồi trên những tảng đá sạch sẽ ngắm biển, đón gió mỗi chiều trong tâm trạng không còn lưu luyến gì đến cảnh hồng trần. Thật là một cảnh Phật ở trần thế!


Khách tham quan được chiêm ngưỡng cảnh tiên giữa biển cả đều không biết rằng, mấy chục năm trước, hòn đảo này chỉ có những khối đá khổng lồ, không thấy bóng cây, ngọn cỏ. Vị hòa thượng gầy gò chiều chiều ngồi trước hiên chùa ngóng ra biển, nhìn hành vân lưu thủy, không mấy khi nói cười chính là người đã cống hiến tất cả sức lực và tuổi trẻ, đằng đẵng 48 năm lao động, chở đất, chở nước từ đất liền ra đảo mới có được một cảnh tiên để lại cho đời như ngày hôm nay.


48 năm “chiến đấu” với thiên nhiên


Đã 79 tuổi, dáng người nhỏ nhắn, gày gò, song hàng ngày hòa thượng Thích Viên Mãn vẫn cùng các đệ tử dọn cỏ, tưới cây trên đảo. Cả đời ông làm việc cực nhọc, máu và mồ hôi đã đổ không biết bao nhiêu xuống hòn đảo này, song trông ông không toát lên vẻ khổ ải. Dáng đi vẫn nhanh nhẹn, linh hoạt.


Ông bảo, với ông, lao động chính là một dạng thiền. Các bậc đại giác cũng đã đắc đạo trong khi lao động tầm thường như giã gạo, gánh nước, chẻ củi... Ông muốn, mỗi du khách khi bước chân lên hòn đảo này đều cảm nhận thấy chất thiền ở từng gốc cây, ngọn cỏ.


Hòa thượng Thích Viên Mãn sinh ra ở vùng đất nắng gió Phú Yên, từ nhỏ đã đi tu khổ hạnh theo phái Mật Tông tại chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa trên núi Sơn Trung (Khánh Hòa). Đây là ngôi chùa rất nổi tiếng, từng được Thái hậu Từ Cung, mẹ Vua Bảo Đại qua lại nhiều lần. Bà từng trồng cây đại trước chùa, đến nay vẫn còn.


Một ngày đầu năm 1960, đứng trên đỉnh Sơn Trung nhìn về hướng Đông, ông giật mình khi thấy ánh hồng hình đóa sen rực lên giữa biển. Ông liền rời núi, tiến về phía biển và thấy ánh hồng bao trùm hòn đảo nhỏ dần biến mất khi mặt trời lặn xuống bên kia đỉnh Sơn Trung. Thấy lạ ông tính chuyện ra đảo tu tập.


Mặc dù là trụ trì chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa, song hòa thượng Thích Viên Mãn vẫn quyết chí ra đảo, vì chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa du khách đến nhiều, phá vỡ không gian chay tịnh của chùa. Hơn nữa, ông tu tập theo phái Mật Tông, nên cần không gian tĩnh lặng tuyệt đối. Thế là tay gậy, tay bị với những cuốn kinh, ông rời núi Trung Sơn, đi về phía Hòn Đỏ.


Ngày đó, cả khu vực còn hoang sơ. Hòa thượng men theo ven biển đến bãi tha ma an táng những người đi biển bị nạn. Cạnh bãi tha ma có 3 túp lều. Anh Sáu Sài Gòn chèo thuyền đưa hòa thượng ra đảo. Nghe tâm nguyện hòa thượng muốn ra đảo sống, anh Sáu buồn cười.


Hàng ngày đi biển qua hòn đảo, nhưng anh ít lên đảo, vì trên đảo không có nước, không có cây xanh, chỉ có những khối đá khổng lồ lổn nhổn nhô lên từ đáy biển. Cả ngày đảo đá phơi mình dưới nắng gắt khiến không gian trên đảo hừng hực nóng. Anh Sáu bảo, nếu sống ở đảo một ngày, chắc cơ thể sẽ biến thành... cá khô.


Hòa thượng Thích Viên Mãn cải tạo một hốc đá thành hang, căng bạt che làm nơi trú nắng, trú mưa, rồi chở nước, lương thực ra dự trữ, chuẩn bị cuộc chiến lâu dài với thiên nhiên khắc nghiệt.


Công cụ lao động của ông chỉ là một chiếc búa, một chiếc xà beng và một chiếc thuyền mủng dùng để đi về.


Hàng ngày, đều đặn từ 6 giờ sáng, khi mặt trời mới nhô lên từ mặt biển, ông nhặt những tảng đá nhỏ đổ vào hõm, hố, rồi dùng búa, xà beng đẽo gọt những tảng đá to, để tạo mặt bằng. Chỉ riêng công việc san lấp mặt bằng để dựng đủ một ngôi chùa, ông đã mất đúng 5 năm làm việc cật lực, ngày nào cũng như ngày nào, cứ đày lưng dưới nắng từ sáng đến đêm khuya.


Hai bàn tay ông chai sần vì vần đá. Khắp người loang lổ vì nắng cháy, miệng khô rộp, da bong từng mảng. Lao động nặng nhọc như vậy, nhưng mỗi ngày hòa thượng Thích Viên Mãn chỉ ăn duy nhất một bữa, đúng vào giờ ngọ. Đồ ăn chính của ông cũng rất đặc biệt, chỉ là các loại rong rêu mọc ở mép đá như rong rau câu, rong đồng mứt, rong chân vịt... mọc ở vách đá hoặc bị sóng biển hắt lên vách đá từng mảng một.


Những ngày ở đảo, tôi đã được hòa thượng Thích Viên Mãn mời bữa cơm chay với món rong rêu. Thú thực, thứ rong này rất nhạt nhẽo, lại có mùi tanh, đắng và chát, rất khó nuốt. Thấy mặt tôi hết co lại giãn khi nhai rong, hòa thượng bảo rằng, trong lúc ăn, nếu lòng ta không nghĩ đến chất ngon, vị ngọt thì miệng nhai nhánh rong đắng cũng giống như nhai một cọng rau muống vậy!


“Khi ta chấp nhận sự khổ cực thì khổ cực sẽ vơi đi, khi ta không nhớ đến sự khổ cực, thì khổ cực sẽ biến mất giữa lòng ta” – hòa thượng triết lý với tôi như vậy.


Có được mặt bằng rồi, hòa thượng Thích Viên Mãn dựng một ngôi chùa nhỏ, rộng độ 25m2, làm nơi tu thiền. Tường chùa được xếp bằng những tảng đá do ông đẽo gọt và cột kèo là 8 chiếc cọc tre. Mái lợp bằng lá. Trong chùa chỉ có một tấm hình Phật tổ được lồng kính trang nghiêm, một lư hương bằng đất nung, một cây đèn dầu, một cái chuông, cái mõ và những cuốn kinh.


Nhưng để biến hòn đảo thành nơi có sự sống, ông tiếp tục lao động không ngừng.


Hàng ngày, ông dậy sớm, chèo thuyền vào đất liền, đóng đất vào bao, vác xuống thuyền rồi chèo ra đảo. Hồi đầu, chưa có kinh nghiệm, ông cứ đổ đất lên các hốc đá. Nhưng rồi, mùa mưa đến, vài trận mưa rào tầm tã, xối hết cả đất xuống biển, đảo lại trơ ra toàn đá. Bao nhiêu mồ hôi đổ hết xuống biển cả.


Không chịu khuất phục, ông nghĩ ra cách chống lại hiện tượng xói mòn. Ông dùng nilon bít tất cả những khe đá lại rồi đổ đất vào. Cứ mỗi lớp đất, lại xếp lên trên một lớp đá, rồi dùng đá xây kè thành tường chung quanh với những lỗ nhỏ ngoằn ngoèo làm dòng nước chảy chậm, đất ít bị cuốn đi. Tạo được mảnh đất nào, ông lập tức trồng cây rồi bê đá xếp thành tường cao để chống gió biển. Ông còn trồng khoai lang, sắn và các loại rau quả trong các giỏ đất xếp trên mặt các tảng đá để có thứ ăn.


Quá trình chăm sóc cây cối vô cùng vất vả. Ông phải chèo thuyền thúng về đất liền, gánh từng xô nước, đổ đầy thuyền rồi chở ra đảo để tưới cây. Cứ tưới được một lúc, nắng nóng và gió biển thổi mạnh lại khô ro, nứt nẻ, do đó, phải tưới nước liên tục nhiều lần một ngày. Cây cối mọc lên, rễ tua tủa, tỏa bóng mát, vừa chống xói mòn đất, lại cản được gió biển.


Tôi hỏi: “Tổng cộng có bao nhiêu năm hòa thượng gánh đất, gánh nước ra hòn đảo này?”. Ông lẩm nhẩm tính và bảo rằng, trừ 5 năm phá đá, dựng chùa, đến nay đã có 40 năm một mình ông liên tục chở đất từ đất liền ra hòn đảo hoang này.


Ngày nay, dạo bước trên hòn đảo tiên cảnh này, con người trần tục chúng ta khó mà tưởng tượng nổi vì sao một con người nhỏ bé, gầy guộc kia có thể làm được việc đó.


Nhà văn Quách Giao, người thân thiết với hòa thượng từ ngày mới ra đảo kể: Suốt hơn 40 năm qua, ngày nào hòa thượng Thích Viên Mãn cũng chở nước và đất từ đất liền ra đảo, rồi gánh nước trên vai, tay chống gậy, tay kia giữ quai thùng, bàn chân trần dẫm lên phiến đá nóng bỏng chuyển đến nơi cần thiết. Không ít lần, ông bị trượt chân, ngã lăn lông lốc xuống vách đá bất tỉnh nhân sự. Những giọt nước quý hiếm đổ xuống đá chỉ một loáng đá bốc hơi sạch...


Khổ nhất là những ngày biển động. Những cơn sóng bạc đầu lật úp cả thuyền đất, dìm vị hòa thượng gầy gò xuống biển. Ông còn nhớ chiều ngày 14/10/1972 (âm lịch), khi đang chở nước từ đất liền ra đảo, một cơn lốc từ đất liền thổi ra, lật úp thuyền. Hòa thượng chỉ còn biết bấu vào miếng xốp mang theo (ông dùng miếng xốp khá lớn thay phao cứu hộ, đề phòng khi thuyền lật). Gió thổi mỗi lúc một mạnh, miếng xốp kéo ông mỗi lúc thêm xa bờ.


Qua một đêm vật lộn với sống biển, sáng ra, không còn thấy hòn đảo nào cả, bốn bề chỉ là biển xanh thăm thẳm với sóng lớn dập dềnh. Sau 3 ngày, 3 đêm lênh đênh trên biển, khi chuẩn bị đổ xuống vì kiệt sức thì gặp tàu viễn dương của Nhật Bản. Được uống nước, ông dần tỉnh lại. Trên người lúc đó chỉ còn mỗi chiếc quần đùi. Những thủy thủ người Nhật này chuyển ông cho tàu đánh cá Việt Nam và họ chở ông về đảo Hòn Đỏ để ông tiếp tục con đường đến cõi Niết bàn.


Dạo bước trên đảo Hòn Đỏ được phủ kín bởi cây xanh và những vườn hoa rực rỡ sắc màu thật khó có thể tin rằng, 50 năm trước, nó là một đảo hoang chỉ có đá là đá. Giờ đây, trên đảo bốn mùa cây trái đơm hoa.


Hòa thượng Thích Viên Mãn còn kỳ công ra Yên Tử chiết cành đại 700 tuổi về trồng để mong thấy được bóng Phật.


Kỳ công nhất là vườn xoài tượng 14 cây ở giữa đảo. Đây là giống xoài ngày trước dùng để tiến vua, hiện chỉ còn ở khuôn viên chùa Từ Quang (Phú Yên). Ông phải gieo hạt vào giỏ đất, rồi khoét núi đá sâu 1m, đổ đất, trồng cây vào, chúng mới sống được và cho trái. Trái xoài nhỏ, ăn có vị ngọt ngọt, chua chua và vị mặn, có lẽ do nước biển.


Tăng ni phật tử bốn phương về viếng cảnh chùa, ăn trái xoài thấy vị mặn mà nghĩ rằng mồ hôi hòa thượng Thích Viên Mãn đã đổ xuống gốc xoài để xoài đơm hoa kết trái.


Giờ đây, ngôi chùa nhỏ trên đảo này đã có thêm 4 đệ tử. Hòa thượng Thích Viên Mãn đã giao quyền trụ trì lại cho đệ tử là Đại đức Thích Chúc Minh. Tăng chúng đã đóng góp cho nhà chùa để mua chiếc máy bơm nước, với hệ thống ống dẫn nước kéo từ đất liền ra để các sư đỡ cực nhọc. Mùa khô, gió biển vẫn thổi rất khốc liệt, trụi hết lá cây, nên phải tưới nước liên tục. Mấy đệ tử phải thay nhau cầm vòi tưới nước suốt ngày đêm.


Theo thầy Chúc Minh, phải tưới liên tục 3 ngày 4 đêm mới hết đảo, nhưng tưới đến cuối đảo, thì phía đầu đã lại khô trắng. Trung bình mỗi tháng, hòn đảo sử dụng 1.000m3 nước để tưới cây. Nếu một người làm việc với máy tưới nước cũng không xuể, vậy mà từ mấy chục năm nay, hòa thượng Thích Viên Mãn chỉ với chiếc thuyền, đòn gánh và hai chiếc thùng cùng mồ hôi và tâm huyết, đã mang lại sự sống cho hòn đảo này.


Rời đảo Hòn Đỏ với ngôi chùa Tự Tôn giữa cảnh bồng lai nơi biển cả, hòa thượng Thích Viên Mãn tiễn tôi xuống tận bến thuyền. Từng đoàn khách du lịch thong thả lên đảo thưởng ngoạn thành quả lao động mấy chục năm của một nhà sư kỳ lạ. Không hiểu vị hòa thượng này đã đắc đạo nhờ lao động thay vì nhập thất tụng kinh hay chưa, nhưng nhìn vào thành quả mà ông gây dựng, tôi tin rằng ông đã tìm thấy cõi Niết bàn cho mình.



---o0o---

Chùa Từ Tôn

---o0o---

Các Ngôi Chùa ở Khánh Hòa

---o0o---

Ảnh: Thích Chúc Minh - Tâm Nhẫn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 3882)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
07/07/2011(Xem: 31009)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 9710)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 3956)
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ? Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu, tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.
23/06/2011(Xem: 4698)
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo. Từ phương Bắc, Trung Quốc đã tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lãnh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống còn và giữ gìn sự độc lập của mình, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo ...
20/06/2011(Xem: 8446)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 5588)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
16/06/2011(Xem: 15922)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
15/06/2011(Xem: 6302)
Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
15/06/2011(Xem: 3048)
1. Tín-ngưỡng ở Giao-châu Trước khi các tông-giáo tràn vào, người Việt chắc đã tôn-sùng những mãnh-lực thiên-nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di-tích còn lại không những ở trong tập-tục của dân-gian, mà trong điển-lệ tế-tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc-tích từ đâu tới. Thần Cao-sơnchắc cũng là đức-thánh Tản-viên, thần Long-thủy có lẽ gốc ở thác Bờ. Lại như các đền hay "chùa" Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điệnhẳn là di-tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]