Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo Tây Phương.

01/04/201318:18(Xem: 5317)
Phật giáo Tây Phương.

PHẬT GIÁO TÂY PHƯƠNG

Nguyên tác:Đại Đức Nyanasatta
Chuyển ngữ:
H.T. Thích Trí Chơn

Phật giáo du nhập các nước Tây Phương bằng cách nào? Trong thời gian Phật còn tại thế, Phật Giáo mới chỉ phát triển đến miền Tây Bắc Ấn Ðộ. Hai thế kỷ sau, đạo Phật lan rộng đến những vùng phía bắc sông Indus ở Punjab và xứ Afghanistan (A Phú Hản). Chẳng bao lâu, Phật Giáo du nhập các nuớc Ba Tư (Persia), Thổ Nhĩ Kỳ (Turkestan) và miền bắc xứ Aryan thuộc Trung Á. Ðến thời vua A Dục, Phật Giáo đã được phát triển xa rộng, bằng chứng là trên những trụ đá của Ngài dựng nên thời đó có ghi chép về việc nhà vua đã từng phái nhiều đoàn truyền giáo đến thuyết pháp ở các miền xa như Ba Tư, Syria, Ai Cập, Hy Lạp.

Thú thật rằng tôi chưa hề được đọc tài liệu xác đáng nào nói về kết quả của đoàn truyền giáo trên tại Hy Lạp vào khoảng giữa thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Nhưng vài tháng trước đây, nhân dịp trên đường về sau chuyến hành hương thăm Nepal và Bắc Ấn Ðộ, tôi đem vấn đề trên thảo luận với một học giả ở Madras thì giáo sư này quyết chắc với tôi trong một cuốn sách viết bằng Anh ngữ vừa mới xuất bản nhan đề “Khảo Cổ Về Các Tôn Giáo” (The Archaeology of Religions) ông đã được thấy có nhiều hình ảnh trình bày về nền văn minh và văn hóa cổ của Phật Giáo ở Macedonia (Hy Lạp) và Thracia. Có thể rằng một ngày gần đây, người ta sẽ tìm ra được nhiều bằng chứng hơn để làm sáng tỏ vấn đề đó.

Trong địa hạt thương mại, xưa kia đã có nhiều đường bộ từ Ấn Ðộ qua Ba Tư, Caucasia đến Armenia cùng những xứ gần Hắc Hải (Black Sea) và Ðịa Trung Hải cũng như các đường thủy từ Ấn Ðộ qua Ai Cập và La Mã. Như vậy, trước niên kỷ Thiên Chúa, Phật Giáo có thể đã được truyền vào Âu Châu do những đoàn người đi buôn qua lại giữa Ấn Ðộ với Hy Lạp và Ý Ðại Lợi. Vào khoảng tám thế kỷ đầu Phật lịch, các thương gia Ả Rập sau khi đến các xứ Phật Giáo Á Châu về, có thể họ đem những câu chuyện đời sống đức Phật và giáo lý của Ngài mà họ đã được nghe những Phật tử miền Trung Á (Central Asia) tường thuật để kể lại với dân chúng bấy giờ. Nhiều bài thơ ngụ ngôn do Aesop, thi gia Hy Lạp hoặc La Fontaine (Pháp) sáng tác đều bắt nguồn ở bộ truyện tiền thân đức Phật (Jatakas).

Nhiều nhà hàng hải như Marco Polo và các vị truyền giáo Cơ đốc đầu tiên đến vùng Viễn đông trở về, họ cũng mang theo nhiều tài liệu, tin tức của những vùng theo Phật Giáo. Về sau, có một vài nhà truyền giáo đã học tiếng Phạn (Sanskrit) để mong dễ thành tựu trong việc phát triển đạo của họ. Những cuốn văn phạm và các bản dịch Phạn ngữ đầu tiên đều do mấy nhà truyền giáo này biên soạn. Khoảng đầu thế kỷ thứ 17, phạm vi kiến thức của những học giả Tây Phương đã bắt đầu mở rộng: Sau khi đồng hóa với nền văn chương, nghệ thuật và triết học mới tìm gặp ở Hy Lạp, họ liền nghĩ đến những vùng đất xa hơn, đó là xứ Ba Tư nằm trên đường đi Ấn Độ. Năm 1610, người ta dịch truyện Gulistan của Ba Tư.

Năm 1800, Anquetil du Perron ấn hành cuốn thánh truyện Avesta cũng của dân tộc Ba Tư. Năm 1802-1803, Anquetil du Perron dịch bộ triết học Áo Nghĩa Thư (Upanishads) viết bằng Phạn ngữ ra tiếng Ba Tư với nhan đề là Onpnek’hat. Sau này bộ Onpnek’hat được dịch ra tiếng Latin mới thật công phu và hữu ích, bởi nó đã giúp cho nhiều triết gia Ðức, nhất là Schelling và Schopenhauer hiểu rõ được nguồn gốc khởi thủy của triết học Ấn Ðộ.

Tuy nhiên sự chú trọng nghiên cứu Phạn ngữ- chính trong lúc học hỏi văn chương và tiếng Phạn, Tây Phương đã biết Phật Giáo- bắt đầu do những học giả Anh quốc. Ông Warren Hastings (1732-1818), vị toàn quyền đầu tiên của Ấn Ðộ đã ủy thác cho 11 vị học giả theo đạo Bà La Môn dịch ra tiếng Anh bộ luật Ấn Ðộ (A Code of Gentoo Laws) và năm 1775, bản dịch đó đã được gởi qua Luân Ðôn. Nhờ sự khích lệ của Warren Hastings, một học giả khác, ông Charles Wilkins đã dịch bộ Bhagavadgita năm 1785 và bộ Hitopadesa năm 1787. Và cuốn văn phạm Phạn văn đầu tiên cũng do ông này soạn. Vào năm 1786 có một học giả người Hy Lạp ông Dimitrios Galanos (1760-1833 ) đến Ấn Ðộ tu khổ hạnh 40 năm với những người theo Bà La Môn giáo ở Ba La Nại ( Benares ) và sau mất tại đó. Ông đã dịch Phạn văn ra tiếng Hy Lạp và soạn cuốn từ điển tiếng Phạn cho những người Hy Lạp dùng. Hiện tác phẩm viết bằng tay này đang còn giữ ở thư viện quốc gia Hy Lạp tại Athens.

Alexander Csoma de Korosi (1774-1842) người Hung Gia Lợi cũng đã sống nhiều năm ở Ấn Ðộ và Tây Tạng. Ông đã ấn hành đầu tiên cuốn văn phạm và từ điển Tây Tạng bằng Anh văn cũng như đã cho đăng tãi vào năm 1836 ở tờ Á Châu tạp chí (Asiatic Review) tài liệu bình giải về bộ Thánh kinh Anjur của Tây Tạng. Sau khi những học giả người Anh dịch xong ra Anh văn bộ luật Manu- bộ luật cần thiết cho chính quyền Anh ở Ấn Ðộ- họ lại dịch bộ Mahabharata và The Hyms of The Rigveda. Không bao lâu nối tiếp những người Anh, có nhiều học giả Pháp và Ðức cũng thông bác tiếng Phạn và họ có thể dịch trực tiếp được nhiều bản Phạn văn. Bởi vậy những học giả, thi gia đầu tiên của hai nước này đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn chương Ấn Ðộ.

Trong lúc sự nghiên cứu Phạn văn ngày càng phát triển mạnh ở Tây Phương thì sự tham học tiếng Bali (Pa- Lị) và những kinh điển Phật Giáo bằng Pali cũng được nhiều học giả chú ý. Năm 1826, Eugen Burnouf và Christian- Lessen cho phát hành đầu tiên tập “Tiểu Luận Về Tiếng Pali” (Essai sur le Pali). Năm 1840 học giả Pháp Eugen Burnouf diễn thuyết về Phật Giáo tại đại học đường College de France và ông đã chinh phục được nhiều sinh viên Phật tử. Từ đó, trường này trở thành nơi nghiên cứu Phật Giáo của nhiều vị học giả khác như R.Roth và Max Muller. Năm 1834-1835, James Prinsep, tòng sự tại sở đúc tiền ở Calcutta là người đầu tiên đọc hiểu được những bia ký của vua A Dục và những bài kệ của các vị sơ tổ Phật Giáo Ấn Ðộ.

Năm 1836, George Turnour cho ấn hành bản dịch ra Anh văn tập Ðại Sử Tích Lan (Mahavamsa) và có in phụ một phần kinh Pali. Năm 1844 Eugen Burnouf cho xuất bản cuốn sách “Lịch Sử Du Nhập Phật Giáo Ấn Ðộ” (Introduction à L’histoire du Bouddhisme Indienne). Trong lời nói đầu của tác phẩm này, tác giả có nhắc đến ông B.H Hodgson, nguyên người Anh giữ chức tổng trú sứ ở Nepal. Ông đã khá thông hiểu Phật Giáo và đã cho ấn hành nhiều kinh sách Phật bằng Phạn văn mà lúc bấy giờ đa số người Tây Phương không biết đến.

Ngoài ra, ông còn viết nhiều sách Phật bằng Anh ngữ để gởi sang Anh và Pháp. Chính nhờ những tài liệu này đã giúp cho học giả Pháp Eugen Burnouf soạn tác phẩm “Lịch Sử Du Nhập Phật Giáo Ấn Ðộ” nói trên. Năm 1825, tờ Á Ðông tạp chí (Journal Asiatic) phát hành tại St. Petersburg (Nga Xô) cũng có đăng một bài viết về “Lich Sử Ðức Phật” của ông J.J. Schmidt. Ngoài ra khoảng đầu bán thế kỷ 19, có nhiều tài liệu Phật Giáo khác phát hành ở Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Nhật Bản và những sách báo Phật Giáo này cũng đã gây được nhiều ảnh hưởng cho đa số học giả khác ở Tây Phương.

Arthur Schopenhauer (1788-1860) là một triết gia Ðức rất sùng bái và ham chuộng Phật Giáo, nhưng có điều không may cho nền Phật Giáo Tây Phương là lúc bấy giờ, về những giáo lý căn bản của đức Phật ông hiểu rất ít. Ông chỉ biết qua những hình thức Phật Giáo đương thời ở vài nước như Tây Tạng, Nepal, Trung Hoa, Mông Cổ và Nhật Bản, chứ ông không phân biệt được sự sai khác giữa Phật Giáo và Ấn Ðộ giáo. Ðây là điều sai lầm chung của phần đông các học giả thời đó. Ðến hiện nay, vẫn còn nhiều người Tây Phương nhầm lẫn Phật Giáo với Ấn Ðộ giáo. Schopenhauer cho rằng triết thuyết của ông giống Phật Giáo; thật ra nó lại gần với Bà La Môn giáo hơn, một đạo giáo mà ông đã chịu ảnh hưởng qua cuốn Oupnek’hat dịch từ bộ Áo Nghĩa Thư (Upanishads) ra tiếng Ba Tư bởi một tín đồ Hồi Giáo là hoàng thân Dara Sahkoh, anh em với vua Mông Cổ Aurengzed.

Theo bản dịch của Anquetil du Perron, Oupnek’hat nghĩa là Upanishads. Ngay nhan đề cuốn sách ông ta dịch đã sai thì nội dung cuốn đó chắc gì tác giả đã dịch hoàn toàn đúng. Còn nghiên cứu bộ Upanishads qua bản Latin dịch ở bản tiếng Ba Tư của hoàng tử Dara Sahkoh dịch từ nguyên văn Phạn ngữ ra thì đâu phải là công việc dễ. Do đó Arthur Schopenhauer, một triết gia Ðức danh tiếng, triết gia của những tâm hồn bi quan đã khiến Phật Giáo lắm khi bị mang tiếng xấu tiêu cực bởi chính cái triết thuyết của ông, triết thuyết mà Schopenhauer lạm nhận cho nó là giống với Phật Giáo như trong Bách Khoa Tự Điển đã giải thích sai lầm rằng “Thuyết thần bí (Mysticism) của ông Schopenhauer có vài điểm tương đồng với đại thừa Phật Giáo”. Thật ra Schopenhauer ít am tường về Phật Giáo Nguyên Thỉ (tiểu thừa) và lại càng mù tịt hơn về Phật Giáo đại thừa, vì nguồn gốc của giáo lý này đều nằm ở những tạng kinh Tây Tạng, Mông Cổ hoặc Trung Hoa chứ không phải ở bộ Oupnek’hat.

Tuy vậy, năm 1856 người ta thấy trên bàn trong phòng Schopenhauer có đặt một bức tượng Phật Tây Tạng, trong lúc ấy ông cũng đặt cho con chó trắng thân yêu của ông cái tên Atman để chứng tỏ “sự bình đẳng giữa người và thú vật hoặc giữa thú vật và người”. Riêng ý niệm này của Schopenhauer đủ cho ta thấy có sự hòa hợp giữa triết thuyết của ông với Ấn Ðộ giáo và các nhà nghiên cứu Phật Giáo cũng không e ngại bảo rằng thật là một sai lầm lớn nếu có ai cho triết lý bi quan của Schopenhauer là đại thừa Phật Giáo. Vì Phật Giáo không dạy một cách máy móc rằng con vật bình đẳng với con người, bởi lẻ loài vật thuộc khổ cảnh còn con người lại thuộc lạc cảnh. Như vậy rõ thật Schopenhauer là một con người có tâm trạng yếm thế đúng với danh từ “kẻ chán đời” mà Bách Khoa Tự Ðiển đã gán cho ông.

Bộ kinh Pali đầu tiên phát hành ở Tây phương tại Leipzig (Đức Quốc). Năm 1848 là bộ Anechota Palica của ông Friedrerich Spiegel. Trong cuốn này, ngoài kinh Pali có thêm phần dịch và chú thích bằng Ðức ngữ. Năm 1855, cuốn kinh Pháp Cú toàn tiếng Pali với bản dịch Latin của ông Fausboll đầu tiên được ấn hành tại Tây Phương ở Kopenhagen (Ðan Mạch). Năm 1862, cuốn kinh này cũng được ông Albrecht Weber dịch ra tiếng Ðức. Và giữa lúc các nhà nghiên cứu Ấn Ðộ ngữ dịch thêm nhiều bộ kinh Pali, những học giả Phật tử khác cũng đã cố gắng tìm cách phổ biến sâu rộng Phật Giáo vào quần chúng. Hiện nay, phần lớn những bộ kinh Pali, đã được hội “Pali Text Society” dịch ra Anh ngữ hoặc Ðức văn. Nhiều bộ kinh Phật giá trị khác cũng đã được dịch sang tiếng Ý.

Vào khoảng những năm đầu của chính thể Cộng Sản Xô Viết cũng có nhiều sách Phật, nhất là đại thừa ấn hành ở Leningrad (Nga) và các nơi khác. Tại Hung Gia Lợi và những quốc gia gần bể Baltic (thuộc Ðại Tây Dương) đều có nhiều kinh sách Phật Giáo in bằng ngôn ngữ của nước họ. Nhiều kinh sách và từ điển Pali cũng được ấn hành tại Danes (Ðan Mạch) và Dutch (Ðức). Hiện giờ ở Yugoslavia (Nam Tư) cũng có nhiều học giả Phật tử bắt đầu dịch kinh Pali và gần đây ở Lỗ Mã Ni (Rumania), ông viện trưởng đại học quốc gia Bucharest có nhờ tôi gởi đến vị chủ bút ban biên tập bộ Bách Khoa Phật Giáo (Encyclopaedia of Buddhism) 100 cuốn sách Phật tìm thấy ở thư viện của những đại học và các phân khoa khoa học tại Lỗ Mã Ni. Và khoảng vài ba năm trước đây, sau khi giáo sư Thomas Garigue Masaryk người Tiệp Khắc (Czechoslovakia) qua đời, người ta cũng đã tìm thấy tại thư viện gia đình của ông 27 cuốn sách Phật, đặc biệt nhất là bộ A Tỳ Ðạt Ma (Abhidhamma).

Mấy năm gần đây, ngày lễ Phật Đản cũng đã được trường đại học khoa học tổ chức trọng thể tại Prague (Tiệp Khắc) và ở Ba Lan (Poland) một pháp hữu của tôi đã giảng về Phật Giáo theo những đề tài do trường đại học nêu ra và lần thuyết pháp đầu tiên đó đã được đài phát thanh Ba Lan truyền đi dưới sự bảo trợ của đại học đường khoa học Ba Lan. Những Phật tử ở Ba Lan và Tiệp Khắc đã từng yêu cầu các đạo hữu ở Tích Lan cũng như các nước Phật Giáo Ðông Phương giúp đỡ những Phật sự bằng cách yêu cầu các chính phủ Cộng Sản tại đó cho phép họ được tự do phát triển Phật Giáo dễ dàng theo ý muốn của họ. Ngoài ra, còn nhiều tổ chức Phật Giáo ở Anh, Mỹ, Pháp và Ðức mà tất cả ai cũng đều biết.

Năm 1903, bác sĩ Kart Seidenstuecker thành lập hội Phật Giáo Ðức và ấn hành tạp sang “Phật Học” (Buddhist Review). Năm 1907, hội Phật giáo Anh ra đời và những tạp chí Phật Giáo Anh ngữ đầu tiên gởi sang Anh quốc đều ấn hành tại Miến Ðiện. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, người ta thấy xuất hiện tại Miến Điện nhiều vị Tỳ Kheo Tây Phương. Khoảng vào năm 1907 và 1908, một phái đoàn truyền giáo Miến Điện được gởi sang Anh quốc và sau này cũng có nhiều đoàn truyền giáo Miến Điện tiếp tục sang thuyết pháp tại Anh, Ðức, Mỹ, Pháp cùng nhiều quốc gia khác và họ đã tận lực phổ biến Phật Giáo tại các nước Âu Châu. Hơn nữa, những đại hội Phật Giáo thế giới, các cuộc lễ kỷ niệm Đức Phật nhập Niết Bàn tổ chức tại nhiều nước Phật Giáo Á Châu mấy năm vừa qua với những buổi phát thanh, chiếu phim và ấn hành những sách báo, tạp chí nói về Phật Giáo Á Châu cũng đã giúp ích nhiều cho sự bành trướng Phật Giáo tại các quốc gia Tây Phương.

(Trích tập chíThe International Buddhist News Forumsố tháng 11 năm 1961).

---o0o---
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2012(Xem: 10718)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
04/01/2012(Xem: 9981)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
16/09/2011(Xem: 6164)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
11/08/2011(Xem: 4513)
Hệ thống đẳng cấp đã tồn tại ở Ấn hàng nghìn năm trước và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của người dân Ấn hiện nay. Hệ thống đẳng cấp, như thường được biết, có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo, hay nói khác đi là một sản phẩm của Bà La Môn giáo. Nhưng về sau, hệ thống đẳng cấp đã vượt ra khỏi Bà La Môn giáo và xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những tôn giáo có nguồn gốc bên ngoài Ấn Độ. Bài viết này tìm hiểu một vài khía cạnh về hệ thống đẳng cấp trong các tôn giáo ở Ấn Độ.
07/07/2011(Xem: 31034)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 6779)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 9734)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 5704)
Một sự trình bày rõ ràng và trung thực về Phật giáo Tây Tạng, quyển sách này trình bày căn bản của Phật pháp theo một đường lối mà mọi người đều có thể hiểu được khi đọc và dễ dàng tu tập trong cuộc sống hàng ngày. Được soạn thảo riêng cho những người mới tìm hiểu vấn đề này lần đầu tiên, quyển sách này cũng còn cung cấp những kiến thức quý báu cho những đệ tử đã thông hiểu Phật giáo Tây Tạng.
22/06/2011(Xem: 4279)
Cách đây không lâu, cả thế giới đã lên tiếng phản đối hành động điên cuồng phá hủy hai tôn tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới tại Bamiyan (Afghanistan) của chính quyền Taliban cực đoan. Sau hành động phá hoại đó, không ít người ngỡ rằng những di tích nền văn minh cổ xưa của Phật giáo tại nơi đây đã bị hủy diệt hoàn toàn; tuy nhiên, điều đó thực tế đã không phải như vậy. Cách đây gần một thập niên, giới khảo cổ học đã khai quật và phát hiện ở Bamiyan những di liệu văn học Phật giáo hết sức kỳ diệu, những minh chứng hùng hồn cho một giai đoạn phát triền rực rỡ của Phật giáo tại nơi này một trung tâm Phật giáo quan trọng ngoài Ấn Độ. Sự phát triển đó đá tạo nên một nền văn minh riêng biệt, gọi là nền văn minh Phật giáo Gandhàra.
20/06/2011(Xem: 8463)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]