Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09_Phục hồi Môi trường để tạo sự Sống Chung Hài Hòa

13/11/202412:15(Xem: 166)
09_Phục hồi Môi trường để tạo sự Sống Chung Hài Hòa


day 2-hoi thao (49)

Phục hồi Môi trường để tạo sự Sống Chung Hài Hòa

(Environment Restoration for Harmonious Co-existence)


Trong những thập niên gần đây nhân loại đã chứng kiến những hậu quả tai hại của sự thoái hóa môi trường trên khắp mặt địa cầu. Sự thoái hóa này đe dọa không chỉ sự cân bằng của các hệ sinh thái mà ngay cả sự tồn tại của nhiều loài động vật trong đó có con người. Để đáp trả cuộc khủng hoảng này đã có một cuộc tập trung ngày càng lớn vào việc phục hồi môi trường: tiến triình sửa sang và làm sống lại những hệ sinh thái đã thoái hóa. Trong Đạo Phật quan niệm phục hồi môi trường có nguồn gốc sâu xa trong những nguyên tắc về phụ thuộc lẫn nha, từ bi và quan tâm. Trong bài này điểm chính là tìm hiểu những lời dạy của Đạo Phật về vấn đề phục hồi môi trường và cách mà những lời dạy đó đề cao sự sống chung với môi trường.

Điểm cốt lõi trong quan niệm Phật giáo về môi trường là quan niệm phụ thuộc lẫn nhau. Đạo Phật dạy rằng mọi chúng sinh đều liên hệ vói nhau và tùy thuộc lẫn nhau. Hạnh phúc của mỗi cá nhân nối kết mật thiết với hạnh phúc của tổng thể. Sự liên đới này cũng diễn ra nơi thế giới tự nhiên, nơi đó con người được coi như một phần nhất định của hệ sinh thái, hơn là tách rời khỏi hệ đó. Trong truyền thống Đại Thừa sự liên đới này được biểu lộ qua quan niệm “duyên khởi” (paticcasamuppāda), theo đó mọi hiện tượng phát sinh tùy vào những nguyên do và điều kiện. Hiểu được sự liên đới này là điều thiết yếu để tiếp cận việc phục hồi môi trường, vì điều đó cổ vũ một ý thức trách nhiệm và sự lo lắng cho thế giới tự nhiên.

Nguyên tắc Phật giáo về từ bi (Karunā) cũng đóng một vai trò đáng kể trang việc tái tạo môi trường. Tù bi trong khuôn khổ Đạo Phật kéo theo sự mong muốn làm giảm khổ đau cho mọi chúng sinh. Điều này bao gồm không chỉ con người mà cả các súc vật, cây cỏ và toàn bộ môi trường. Những lời dạy của kinh sách Phật giáo nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc thực hành từ bi cho mọi sinh vật, như vậy là bao gồm cả môi trường. Trong khuôn khổ phục hồi môi trường, lòng từ bi thúc đẩy các cá nhân hành động hướng tới việc chữa lành môi trường và bảo vệ mọi sinh vật sống nhờ vào đó. Khi nhận ra được nỗi khổ đau do thoái hóa môi trường gây ra, các Phật tử được khuyến khích hành động để phục hồi và bảo vệ thế giới tự nhiên.

Yathāpibhamarōpuppham - vannagandhamaheṭayampaletirasamādaya - evamgamēmuni care

Khi các thày tu vào làng để khất thực (pindapātha), như con ong hút nhụy hoa mà không làm hại bông hoa, thày tu phải ứng xử cách nào mà không ai bị tổn thương.                 (Dhammapada Câu 49)

Quan tâm là một quan niệm căn bản khác của Đạo Phật, khuyến khích mọi người ý thức những ý tưởng, câu nói và hành động của mình. Ý thức này bao gồm ảnh hưởng của các sinh hoạt của con người trên môi trường. Thực hành sự quan tâm thúc đẩy một mối liên kết sâu sắc với thế giới tự nhiên và khuyến khích mọi người xét đến hậu quả của các hành động của họ đối với môi trường.

Thông qua sự quan tâm các Phật tử được yêu cầu có những chọn lựa đầy ý thức, những chọn lựa giảm thiểu tối đa thiệt hại gây ra cho môi trường và gia tăng tối đa hạnh phúc của nhân loại. Phương pháp dựa trên sự quan tâm này nhằm phục hồi môi trường gồm có những cách thực hành như duy trì cuộc sống ổn định, các cố gắng bảo tồn và đề cao những sáng kiến thân thiện với hệ sinh thái.

Một trong những cách thực hành chính trong Đạo Phật nhằm giải quyết việc phục hồi môi trường dựa trên quan niệm “Dāna,”, quan niệm này có nghĩa là hào phóng hoặc cống hiến. Hành động dāna có ý nghĩa vượt ra ngoài những của cải vật chất và bao gồm việc cống hiến thời gian, cố gắng và sự săn sóc của mình để giúp người khác.Trong khuôn khổ phục hồi môi trường, thực hành dāna gồm có đóng góp vào việc bảo vệ và làm sống lại môi trường thiên nhiên. Điều này có thể diễn ra dưới dạng tham gia các hoạt động dọn dẹp vệ sinh, trồng cây, hỗ trợ các dự án bảo tồn, hay đề cao các cách thức sống ổn định. Với tư cách là hiện thân của tinh thần dāna các Phật tử tham gia tích cực vào các hành động nâng cao hạnh phúc của môi trường, cổ vũ sự sống chung hài hòa với thế giới tự nhiên

Cách Đạo Phật giải quyết vấn đề phục hồi môi trường cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cách cư xử có đạo đức với môi trường. Năm Lời Giáo Huấn, một bộ hướng dẫn đạo lý cho Phật tử bao gồm việc không làm hại các sinh vật và chỉ lấy những gì cần thiết. Những lời giáo huấn này cung cấp một khuôn khổ cho cách ứng xử có đạo đức cả trong cách đối xử với môi trường. Khi tuân theo lời giáo huấn không làm hại, Phật tử được yêu cầu tránh các hành động đóng góp vào sự thoái hóa của môi trường, như là ô nhiễm, phá rừng và khai thác các tài nguyên thiên nhiên. Thay vào đó họ được khuyến khích áp dụng một phương cách đầy quan tâm và từ bi trong các tương tác với môi trường, đặt trọng tâm và sự ổn định và bảo tồn.

Trong truyền thống Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa, lý tưởng Bồ Tát và Phật tính tượng trưng cho quyết tâm phục vụ mọi chúng sinh, điều này bao gồm cả thế giới tự nhiên. Các Bồ Tát là các cá nhân đã nguyện đạt giác ngộ để phục vụ chúng sinh và đã thề làm việc không mệt mỏi để chấm dút khổ đau. Trong khuôn khổ phục hồi môi trường, lý tưởng Bồ Tát truyền cảm hứng cho các Phật tử để tiếp cận các vấn đề môi trường với một tinh thần vị tha và quên mình. Bằng cách kết hợp những đức tính từ bi, trí tuệ và khôn khéo, các Bồ Tát bắt tay vào các hoạt động đề cao việc chữa lành và phục hồi môi trường, đi đến sự sống chung hài hòa của mọi chúng sinh.

“ēkapuggalolokēuppajjamānouppajjatibahujanahitāyabahujanasukhāyalokānukampāya”

Có một người sinh ra để tạo cuộc sống tốt hơn và hạnh phúc cho nhiều người, để chứng tỏ từ bi cho thế giới hiện nay.  (AnguttaraNikāya – ēkakanipāta)

Nhãn quan Phật giáo về vô thường (aniccā) cũng cho thấy cách tiếp cận việc phục hồi môi trường. Phật tử hiểu rằng mọi hiện tượng, kể cả môi trường, đều chịu sự thay đổi và phân rã. Ý thức về vô thường này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc săn sóc và bảo vệ thế giới tự nhiên. Ý thức nhắc nhở mọi người về sự mong manh của môi trường và sự cần thiết phải hành động gấp rút để tái tạo và bảo tồn môi trường. Sự tôn kính quan niệm vô thường là một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy Phật tử dấn thân vào các cố gắng bảo tồn thiên nhiên, công nhận bản chất ngắn ngủi của môi trường và nhu cầu bảo vệ môi trường cho các thế hệ tương lai.

Những lời dạy trong kinh sách Phật giáo đưa ra một khuôn khổ sâu sắc và toàn diện cho việc phục hồi môi trường và sự sống chung hài hòa với thế giới tự nhiên. Những nguyên tắc về liên kết, từ bi, quan tâm, dāna, cách cư xử đạo đức, lý tưởng Bồ tát, và vô thường tất cả đều hướng dẫn Phật tử trong cách họ tiếp cận việc chữa lành và phục hồi môi trường. Bằng cách vun đắp một ý thức trách nhiệm sâu xa, sự săn sóc và thái độ biết ơn đối với môi trường, Phật tử cố gắng tạo ra một sự sống chung hài hòa trong đó mọi chúng sinh có thể phát triển.

Chấp nhận những lời dạy trong kinh sách Phật giáo không chỉ đem lợi lộc cho thế giới tự nhiên mà còn thúc đẩy một ý thức sâu xa về sự liên kết, từ bi và quan tâm trong các cá nhân, cuối cùng đóng góp vào hạnh phúc của hành tinh và những con người sống trên đó.

Đại Đức Parawahera Chandarathana Thera

Trưởng Tăng già Nayaka tại Pháp

Một trong các phó chủ tịch WBSC                      

Trung Tâm Phật giáo Quốc tế tại Pháp

Việt dịch: Chơn Thanh Chu Bảo Cảnh 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 12979)
Hôm nay là ngày 20 tháng 6 năm 2001 nhằm ngày 29 tháng 4 nhuần năm Tân Tỵ, tôi chắp bút bắt đầu viết quyển sách thứ 32 nầy trong mùa An Cư Kiết Hạ của năm nay. Hôm nay cũng là ngày rất đẹp trời. Vì mấy tháng nay, mặc dầu đã vào hạ; nhưng bầu trời vẫn vần vũ bóng mây, như dọa nạt thế nhân là ánh sáng của thái dương sẽ không bao giờ chan hòa đến quả địa cầu nầy nữa.
10/04/2013(Xem: 9474)
Sau 30 năm sinh hoạt Phật sự tại Đức, tôi ngồi tính sổ lại thời gian, nhân duyên, cơ hội cũng như những phạm trù khác để gởi đến quý Phật Tử xa gần, với những người lâu nay hằng hộ trì cho Phật pháp tại Đức nói riêng và các nơi khác tại Âu Châu cũng như trên thế giới nói chung với tinh thần của người con Phật và với tư cách là một Trưởng Tử của Như Lai.
10/04/2013(Xem: 5304)
Khi Koryeo đang chịu cảnh cực khổ vì quân Mông Cổ xâm lược Koryeo, người Koryeo đã khắc lẽ phải trên gỗ. Cứ khắc một chữ trên gỗ là người Koryeo đã cúi lạy ba lần. Hơn 50 triệu chữ và kiểu khắc chữ của toàn bộ các chữ đều giống nhau y như từ một người viết. Cũng không có chữ nào bị lỗi và bị bỏ sót. Đây chính là ‘Cao Ly Đại Tàng Kinh’. Nó là Đại Tàng Kinh cổ nhất hiện đang tồn tại trên thế giới.
10/04/2013(Xem: 3906)
Chuyến hoằng pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan vào tháng 6 năm 2007 là một duyên lành, không chừng là lần cuối của Ngài, do tuổi hạc đã cao và một lịch trình sinh hoạt hằng năm ở khắp nơi trên thế giới đầy kín.
10/04/2013(Xem: 4048)
Thật là một đại hoan hỉ khi chúng tôi xin thưa với quý vị Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 sẽ trở lại Úc vào ngày 11 /06/2008 để thuyết pháp trong năm ngày tại Sydney
10/04/2013(Xem: 7717)
Cali Today News - Đức Đạt Lai Lạt Ma, Nhà lãnh đạo tôn giáo và cũng là nhà lãnh đạo lưu vong Tây Tạng nói: "Dân tộc Việt Nam rất anh hùng rất đáng kính trọng. Sau một thời gian khó khăn, khi mức sống của nhiều người được cải thiện thì sức mạnh tinh thần và tâm linh của người Việt sẽ giúp họ tìm ra con đường tốt đẹp hơn cho Việt Nam" . Ngài đã nói như vậy khi "phái đoàn" của Nhật báo Việt Báo đến viếng thăm Ngài vào ngày 14 Tháng 9, 2006 tại Pasadena, California.
10/04/2013(Xem: 5621)
Mạc Tư Khoa, Nga – “Thi thể của Giáo trưởng Lạt ma Itigelov đã được khai quật vào ngày 10 tháng 9, năm 2002, trong khu nghĩa trang gần thành phố Ulan Ude (Liên Bang Nga). Lạt ma thị tịch và được an táng vào năm 1927, và việc khai quật này đã được thực hiện với sự hiện diện của thân nhân, viên chức, và chuyên gia.”
10/04/2013(Xem: 4591)
Có một nhà sư rất khiêm tốn, chỉ tự nhận là một người tu hành, một nhà sư Phật giáo mà thôi. Ngài tên là Tenzin Gyatso, sinh năm 1935. Nhưng người ta lại gán cho Ngài cái tước hiệu là Đạt-Lai Lạt-Ma thứ XIV, và Ngài đã nhận giải Nobel Hoà Bình vào tháng 9 năm 1989. Ngài rất yêu thương con người, nhân loại và dân tộc của Ngài.
10/04/2013(Xem: 4865)
Đêm Hy Mã Lạp Sơn vang lên tiếng chó sủa. Ánh sáng lập lòe bên kia sườn đồi. Dưới vòm trời sao, trên lối mòn tăm tối giữa những hàng thông, một nhóm người hành hương trong y phục tả tơi đang bước đi, miệng lẩm bẩm cầu kinh. Ngay trước lúc rạng đông, khi những đỉnh núi tuyết ở phía sau nhuộm màu hồng đậm, đám đông ở bên ngoài ngôi chùa Namgyal ba tầng ở Dharamsala, miền Bắc Ấn Độ, trở nên yên lặng.
10/04/2013(Xem: 8894)
Đức Đạt Lai Lạt Ma 14, tên thật là Tenzin Gyatso, là một nhà lãnh đạo thế quyền và giáo quyền của nhân dân Tây Tạng. Ngài chào đời tại làng Taktser, vùng Đông Bắc Tây Tạng vào ngày 6 tháng 7 năm 1935 (Ất Hợi) trong một gia đình nông dân. Ngài được thừa nhận là Dalai Lama vào năm 2 tuổi theo truyền thống Tây Tạng như là hóa thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]