Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khái lược Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane, Lào

11/01/202214:17(Xem: 3270)
Khái lược Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane, Lào
Khái lược Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane Lào
Khái lược Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane, Lào
(Sangha College in Vientiane, Laos summary)
 

Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane (Sangha College in Vientiane, Laos) được thành lập vào năm 1929 (PL.2472), do Vương thân Phetsarath Rattanavongsa (1890-1959) và Trưởng lão Hòa thượng Somdet Phra oukeo Outhen Sakda, Tăng thống Vương quốc Phật giáo Lào và Thống đốc Vientiane kiến lập.


Đây là nơi được biết đến là trường học giáo lý (Pariyatti), giải quyết nhu cầu của chư tăng muốn dạy ngôn ngữ Pali, hoặc tiến hành các nghiên cứu; do đó yêu cầu một mức độ cao hơn trong việc nghiên cứu, so với mức độ hiện đang có sẵn trong các tự viện Phật giáo.


Ban đầu hoạt động trong vùng lân cận của Hoàng cung, nhà trường giảng dạy pháp học, Luật tạng (vinaya-piṭaka), phần thứ hai của Tam tạng, quy định về việc sống tập thể của chư tăng, tiếng Pali, lịch sử cuộc đời đức Phật, tiếng Lào, tiếng Khmer và toán học. Ban đầu có 150 học tăng và bốn vị giáo thụ. 


Trong những thập niên 1930 của thế kỷ 20, khi học giả nổi tiếng và trí thức của dân tộc Lào - Cư sĩ Ma ha Sila Viravongs (1905-1987) - là giám đốc ngôi trường, một thư viện bản thảo lá cọ được thành lập trong trường và một trường nghệ thuật Phật giáo cũng được thiết lập trong khuôn viên của ngôi già lam Wat Chanthaburi, nằm dọc theo sông Mekong, Vientiane. 


Chi nhánh trường Đại học Tăng già Phật giáo Lào tại Luang Prabang, một tỉnh miền Bắc Lào cũng được khánh thành vào năm 1932 (PL.2475).


Năm 1950 (PL.2493), Đại học Tăng già Phật giáo Lào được chuyển đến ngôi già lam Wat Sithane Neua dưới sự hướng dẫn của Trưởng lão Hòa thượng đáng kính nhất Phra Achan Bouakham Voraphet (1909-1996).


Năm 1953 (PL.2496), khi Lào giành độc lập hoàn toàn với chế độ quân chủ lập hiến, trường Đại học Tăng già Phật giáo Lào đặt dưới thời Bộ Giáo phái, chuyển đến ngôi già lam Wat Ong Tu Mahavihara (đường Sethathirath, quận Chanthabouly), thủ đô Vientiana và đổi danh xưng thành Viện Pali. Nơi đây chấp nhận tất cả các vị tăng sinh Phật học và những người mới tốt nghiệp Trung học Phổ thông để tham gia một chương trình học 4 năm được gọi là lớp Dự bị, bao gồm các môn học bổ sung như địa lý, lịch sử và tiếng Pháp.


Năm 1976 (PL.2510), Viện Pali được chuyển giao trách nhiệm cho Bộ Giáo dục quốc gia, Đại học của Bộ Giáo dục và đổi tên thành Viện Giáo dục Phật giáo. Với hai vị giáo viên Thái Lan, một giáo viên người Pháp, một giáo viên tiếng Anh và một giáo viên Ấn Độ, bấy giờ cũng đã cung cấp các nghiên cứu sư phạm, triết học phương Tây, triết học Ấn Độ và các tôn giáo khác.


Sau cuộc cách mạng năm 1976 (PL.2519) thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Viện Giáo dục Phật giáo bắt đầu giảng dạy chương trình Cao đẳng 6 năm, tương đương với bằng Cử nhân và đã trở thành một trường đào tạo giáo viên Tiểu học và Trung học trực thuộc Bộ Dạy nghề và Đào tạo giáo viên của Bộ Giáo dục quốc gia Lào.


Năm 1996 (PL.2539), Viện Giáo dục Phật giáo được đổi thành Trường Cao đẳng Tăng già Phật giáo và được tổ chức thành hai khoa: Khoa Giáo dục và Khoa Nghệ thuật. Kể từ đó trường đã hoạt động theo Bộ Giáo dục, Tổ chức Học bổng Phật giáo Lào và Mặt trận Lào cho việc xây dựng quốc gia. Sinh viên đến từ khắp nơi trên đất nước hào hứng đăng ký học tập tại ngôi trường này.


Thích Vân Phong biên dịch 

(Nguồn: Sangha College in Vientiane)

 
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/10/2014(Xem: 34040)
Cuốn PHẬT GIÁO KHẮP THẾ GIỚI, do Tỷ khưu Nguyên Tạng viết, là một đề tài hấp dẫn mà đáng lẽ phải có từ lâu. Ðối với người con Phật ở Việt Nam / châu Á thì sự kiện nổi bật nhất ở nửa cuối thế kỷ XX không hẳn là cuộc cách mạng Tin học, mà là sự phát triển ngoạn mục của Phật giáo tại Tây AÂu và Bắc Mỹ. Thực ra, cuộc cách mạng giác ngộ nhân chủ khởi nguyên từ hậu bán thế kỷ XVIII là do sự thức tỉnh của giới trí thức phương Tây sớm biết tìm đến với Ðạo Phật, và đã lái lịch sử thế giới đi vào con đường giải thoát thân phận con người khỏi khổ đau, mê tối, và giải phóng các dân tộc nhược tiểu thoát cảnh thù địch, lạc hậu – Phải chờ hơn hai thế kỷ.
16/10/2014(Xem: 10466)
Chaman Lan và một số học giả Hoa Kỳ cho rằng không phải ông Columbus đầu tiên tìm ra Châu Mỹ mà chính những người di dân Hindu từ Ấn Độ. Lý luận mới lạ này được dựa vào một số truyền thống thịnh hành ở Trung Mỹ và Mexico. Nhưng giả thiết này thiếu sự ủng hộ của bằng chứng văn học. Tuy nhiên chúng ta cũng có ít nhất là một điểm được ghi lại trong lịch sử Trung Hoa nói đến một đoàn tu sĩ Phật Giáo đến Châu Mỹ vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch và đã đưa Phật Giáo vào dạy cho những người dân ở đó.
02/09/2014(Xem: 10286)
Các tổ chức cá nhân trên thế giới đã tập hợp để bày tỏ lo ngại ngôi Borobudur (Bà La Tự viện quần-婆羅浮屠寺院群) Đại Già lam lớn nhất thế giới, bởi mối đe dọa gần đây của nhà nước Hồi giáo (IS). Ngôi Borobudur (Bà La Tự viện quần-婆羅浮屠寺院群) Đại Già lam lớn nhất thế giới, là một ngôi Chùa Tháp Phật giáo quy mô, miền Trung đảo Java, Indonesia.
17/08/2014(Xem: 25525)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 8571)
Vào thời đại Silla (Tân La) ở Hàn Quốc, khoảng hơn Nghìn năm trước, có một cậu bé tên là Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城) sống ở làng Moryang. Vì hoàn cảnh gia đình gặp phải khó khăn về kinh tế, cho nên cậu phải rày đây mai đó làm thuê mướn để đổi lấy bát cơm manh áo và phụ giúp gia đình. Một hôm, sau khi dự buổi thính pháp đàm của một vị Pháp sư giảng giáo lý Phật đà, cậu liền về nhà thuyết phục mẹ mình cúng dường mảnh ruộng vườn, tài sản duy nhất của gia đình để tích phúc đức.
23/07/2014(Xem: 7123)
Bằng việc cho phép phụ nữ gia nhập Tăng đoàn, Đức Phật 2.500 năm trước đã đặt phụ nữ bình đẳng với nam giới ở Ấn Độ. Nhưng ngày nay ở hầu hết các quốc gia Phật giáo châu Á nữ tu đang chiến đấu một trận chiến khó khăn để được công nhận là người truyền bá Giáo pháp. Một người phụ nữ Nepal có thể đã vô tình thay đổi nhận thức này bằng cách hát về Giáo pháp.
23/07/2014(Xem: 4893)
1500 người tham gia cầu nguyện nạn nhân Malaysia Airlines MH17 Phật Quang Sơn, Trụ trì Tuệ Phong pháp sư (慧峰法師) chính giữa, Tuệ Nghi pháp sư (慧宜法師) bên phải, Tuệ Trạch Pháp sư (慧澤法師) bên trái, ba vị dẫn đoàn 1500 Thiền sinh, Trại sinh Thiền học Quốc tế cùng đến trước Phật đài, thắp nến để cầu nguyện cho các nạn nhân chuyến bay MH17 Malaysia Airlines.
28/05/2014(Xem: 5946)
Đảo Jeju, Hàn Quốc; vịnh Hạ Long, Việt Nam; Thác Iguazu (Bra-xin và Ác-hen-ti-na), Đảo Komodo (Indonesia), Rừng mưa Amazon và Sông Amazon, Vườn quốc gia sông ngầm Puerto Princesa (Philippines) và Núi Bàn (Nam Phi) được bình chọn là "Bảy kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới” vào cuối năm 2011.
26/05/2014(Xem: 10640)
New Delhi, India – Nhà truyền bá Phật giáo Toàn cầu đầu tiên của thế giới Anagarika Dharmapala và người đàn ông được nói đều nhiều nhất ở Ấn độ ngày nay, và có lẽ những người có quyền thành lập chính sách và đưa ra quyết định, Thủ tướng Ấn độ, ông Narendra Modi, đều có một số điểm chung. Cả hai đều sinh ngày 17 tháng 09 mặc dầu cách nhau 86 năm. Anagarika Dharmapala sinh ngày 17 tháng 09 năm 1864 và Narendra Modi chào đời ngày 17 tháng 09 năm 1950.
01/05/2014(Xem: 5561)
Nổi tiếng là bộ Kinh Phật khắc trên gỗ lớn hàng đầu thế giới, Tripitaka Koreana từng được tổ chức UNESCO liệt vào hàng di sản văn hóa cao quý nhất của xứ bình minh yên tĩnh. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử để tồn tại cho đến tận bây giờ, bộ Kinh Phật này năm nay vừa tròn 1000 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]