Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại diện Tri thức trong Truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā

27/10/202110:16(Xem: 2157)
Đại diện Tri thức trong Truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā

Đại diện Tri thức trong Truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā
Đại diện Tri thức trong Truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā
(Knowledge Representation in the Nālandā Buddhist Tradition)

Từ quan điểm Phật giáo, nghiên cứu trí tuệ nhân tạo (AI) dẫn đến một chuỗi điều tra mới thú vị. Có thể nói, Tin học đại diện cho đỉnh cao nhận thức của con người, nơi tụ hội các công nghệ tiên tiến trong triết học, logic, toán học, lập trình và kỹ thuật để đưa ra những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Công trình này không chỉ đại diện cho một ngành khoa học đúng nghĩa của nó, mà còn giúp tạo ra cơ sở và cơ sở hạ tầng quan trọng, cần thiết cho sự tiến bộ trong các lĩnh vực tri thức khác của con người,  bao gồm cả khoa học vật lý và vật liệu. 

Tư duy Phật học bắt nguồn từ truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā. Truyền thống này bắt nguồn từ Ấn Độ, và với tên gọi là Đại học Phật giáo Nālandā, một trung tâm học tập bậc cao thời cổ đại, một tu viện Phật giáo lớn nằm ở vương quốc cổ Magadha, ngày nay thuộc tiểu bang Bihar, Ấn Độ. 

Ngày nay, Nālandā University là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận từ năm 2016. Được thành lập vào thế kỷ thứ 5, Đại học Phật giáo Nālandā là nơi từng có hơn 10.000 sinh viên và 2.000 giảng sư, giảng dạy nhiều ngành học khác nhau. Đây cũng là một trong những trường đại học mang tầm vóc quốc tế đầu tiên. Những giáo lý xuất phát từ Đại học Phật giáo Nālandā đại diện cho đỉnh cao trong sự tiến hóa của tư tưởng nhân loại, cả về nhận thức 'các vấn đề liên quan đến tâm trí' cũng như các lĩnh vực vật chất và xã hội, với các thực hành logic và tổ chức cộng đồng hay còn gọi là Tăng đoàn Phật giáo (संघ). 

Một trong những khía cạnh thiết yếu bởi sự phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) là biểu diễn tri thức (KR). Biểu diễn tri thức (KR) là một chủ đề rộng lớn, bao gồm từ nhận thức đến nhận thức luận. Về mặt hình thức, nó bao gồm các phương pháp và kỹ thuật để biểu diễn logic, thành các cấu trúc có thể tính toán được, nhằm mục đích thiết kế các hệ thống thông tin số. Tuy nhiên, với nghĩa rộng, nó liên quan đến cách con người hình thành khái niệm, tiếp nhận, ghi nhớ và sử dụng các cấu trúc kiến thức khác nhau. Như vậy, nó là một lĩnh vực nghiên cứu đa dạng, có thể rút ra từ những ý tưởng và lý thuyết trong lịch sử nhân loại. 

Một sự phát triển đương đại cho sinh viên của biểu diễn tri thức (KR), để kiểm tra các hệ thống phần mềm thông minh và tự trị. Chúng thường thuộc lĩnh vực khoa học máy tính. Các kỹ thuật và công cụ biểu diễn tri thức (KR) đương đại, cụ thể vẫn có thể áp dụng cho trí tuệ nhân tạo (AI), ngày nay lần đầu tiên được chính thức hóa, và xuất bản trên các tạp chí kỹ thuật vào những thập niên 1970, nhấn mạnh sự tác động qua lại của công nghệ và triết học. 

Do đó, như chúng ta biết ngày nay hầu hết biểu diễn tri thức (KR) được phát triển cùng với trí tuệ nhân tạo (AI). Đặc biệt điều này đúng trong lĩnh vực
hệ thống chuyên gia, trong đó chuyên môn được coi là một kiến được thức tinh luyện cụ thể có so sánh với "kỹ năng", hoặc phương tiện thiện xảo trong tư tưởng Phật học. Trong biểu diễn tri thức (KR) và trí tuệ nhân tạo (AI), chủ yếu phục vụ với mục đích cung cấp các chỉ định, có thể tính toán được cho các cấu trúc logic. Điều này bao gồm đặt tên các thực thể, tiên đề và quy tắc để hỗ trợ mã hóa rõ ràng của chúng, cho phép các chức năng được máy tính hóa. Biểu diễn tri thức (KR) được phát triển trong khoa học máy tính qua các giai đoạn khác nhau 'phản ánh các xu hướng tương ứng trong tự động hóa hệ thống' mà đỉnh cao là nghiên cứu Web ngữ nghĩa. Ngày nay, Website, còn gọi là trang web hoặc trang mạng đã nhanh chóng trở thành một kho kiến thức khổng lồ có thể truy cập công khai. Điều này đã mang lại những thách thức chưa từng có, đối với việc tiếp nhận và lưu trữ kiến thức. Một khối kiến thức bao quát được gọi là kỹ thuật ontology (ontology engineering) đã ra đời, về cơ bản dựa trên các nguyên lý cốt lõi của biểu diễn tri thức (KR).
 

Kể từ khi học và biết sử dụng máy vi tính đã trở thành trọng tâm của trí tuệ nhân tạo (AI) đương đại, sự chú ý của các nhà phát triển đã không còn quan tâm đến tiêu chuẩn biểu diễn tri thức (KR), vốn được phát triển để hỗ trợ những gì, được gọi là tượng trưng cho trí tuệ nhân tạo (AI). Thay vào đó, các nhà phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) đã bắt đầu hướng đến logic nhúng nhiều hơn, nơi hệ thống logic không được trình bày rõ ràng. 

Với tư cách là một nhà nghiên cứu, trong công việc của mình tôi cố gắng giải quyết những vấn đề này bằng cách đọc nhiều, thảo luận sâu và viết. * Trong truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā có một mối quan hệ giữa biểu diễn tri thức (KR) và trí tuệ nhân tạo (AI), được coi là cái nôi của hầu hết các chốn học đường của Phật giáo đồ. Một bài báo được xuất bản cách đây 30 năm, trên một ấn phẩm kỹ thuật về trí tuệ nhân tạo (AI), đã phân tích hình thái ngữ pháp logic của ngôn ngữ Sanskrit. Nó (Briggs 1985) kết luận rằng cấu trúc tiếng Phạn như một ngôn ngữ tự nhiên cung cấp mang tính hình thức đầy đủ để hỗ trợ lý luận khoa học, giống như không có ngôn ngữ tự nhiên nào khác. Gần đây hơn, Học viện Công nghệ Ấn Độ (IITs, học viện kĩ thuật công nằm tại Delhi, Ấn Độ), nơi tôi từng là học giả thỉnh giảng, gần đây đã thông báo rằng, họ bắt đầu có kế hoạch dạy tiếng Phạn như một phần của chương trình giảng dạy công nghệ của họ. 

Cần lưu ý rằng, tiếng Phạn là ngôn ngữ gốc và là tiền thân của các ngôn ngữ khác trong truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā, cụ thể là tiếng Prakrit, được cho là ngôn ngữ đã được sử dụng giao tiếp trong xã hội vào thời Đức Phật lịch sử. Theo Bách khoa toàn thư Britannica:

Prakrit từ tiếng Phạn: Prakrta, có nghĩa là "phát sinh từ nguồn, xảy ra từ nguồn" hoặc bản chất nguyên thủy. Chúng có thể được coi là thuộc cùng một họ ngôn ngữ, và cả ngữ pháp của chúng, với những cách khác nhau, xác định các dạng lời nói được coi là đúng hoặc chuẩn (gọi là shabda). Trong đó các thành phần ngôn ngữ được cho là được tô điểm hoặc thanh (samkrta) bằng cách tuân thủ các nguyên tắc ngữ pháp cụ thể, và như vậy dẫn đến công đức, với trái ngược và không đúng hoặc không chuẩn (các dạng apashabda) là những hư hỏng apabhramsha 'rơi rụng') có thể chấp nhận được các biểu mẫu chính xác. Bách khoa toàn thư Britannica). 

Các ngôn ngữ Prakrit được coi là một dạng ngôn ngữ bản ngữ phát sinh từ tiếng Phạn. 

Trong thời đại của chúng ta, các kỹ thuật và phương pháp biểu diễn tri thức (KR) được sử dụng để thiết kế, xây dựng và duy trì tính toàn vẹn logic trong các hệ thống thiết kế. Cũng giống như ngữ pháp được sử dụng để hỗ trợ tính toàn vẹn logic của lời nói, đây là một biểu hiện của tư duy. Trong đạo Phật, thực hành tốt được coi là "Chánh tư duy" (xem Chánh niệm và Chánh định trong Bát Chánh đạo), và phản ánh Chánh ngữ, vâng lời và tự nhiên tuân thủ Chánh tư duy, tiếp theo Chánh nghiệp. Điều này mang lại sự thống nhất về mục đích và tính nhất quán logic, điều cần thiết cho bất kỳ loại thành tựu hoặc hiện thực hóa nào trong thực hành tâm linh, cũng như tính toàn vẹn logic, cần thiết để đảm bảo chức năng chính xác của hệ thống. 

Trong khoa học máy tính, kỹ thuật bản thể học là cần thiết ít nhất ở một mức độ nào đó đối với sự phát triển của các hệ thống thông minh. Có thể đây được coi là một phần mở rộng hiện đại 'áp dụng cho tính toán' của một truyền thống lâu đời trong việc rèn luyện trí óc thông minh, mạch lạc của con người. 

Một trong những luận sư vĩ đại nhất của lịch sử Phật giáo, Bồ tát Long Thọ (Nāgārjuna, नागार्जुन) cho là không chắc chắn về khả năng thu nhận kiến thức bởi những ngụy biện và tình trạng tự mâu thuẫn của tất cả các phương tiện thu nhận kiến thức, khi giải quyết các mối quan tâm của Bồ tát Long Thọ, các bậc triết gia sau này như Bồ tát Vô Trước, Đại luận sư của Phật giáo Ấn Độ, người sáng lập Duy thức tông, Bồ tát Thế Thân, Luận sư xuất sắc của Thuyết nhất thiết hữu bộ và Duy thức tông, Tổ thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ, Bồ tát Trần Na, Luận sư nổi tiếng của Duy thức tông, người cải cách và phát triển ngành Nhân minh học (khoảng năm 450 sau Tây lịch) bắt đầu chính thức hóa nền tảng nhận thức luận của Phật giáo. Sự chính thức hóa này, sau đó được tiếp nối bởi Triết gia Ấn Độ, nhà logic học và toán học Gangesha Upadhyaya (गंगेश उपाध्याय, cuối thế kỷ 12), người sáng lập trường Navya-Nyāya ("Logic Mới"). Mình Tattvacintāmaṇi (The Jewel of Thought trên Nature of Things), còn được gọi là Pramāṇacintāmaṇi (The Jewel of Thought Về Các Phương Tiện kiến thức hợp lệ), là nội dung cơ bản cho tất cả các diễn biến sau đó. Các nhà logic học của trường phái này chủ yếu quan tâm đến việc xác định các thuật ngữ và khái niệm của họ liên quan đến các phạm trù logic không nhị phân.

Một trong những đóng góp của Đại luận sư Bồ tát Trần Na, tác phẩm "Tập Lượng Luận" (Pramana-samuccaya, 集量論) được thúc đẩy bởi nhu cầu thiết lập các phương tiện nhận thức hợp lệ. Động lực này được thực hiện bởi Bồ tát Pháp Xứng, một trong những Luận sư quan trọng nhất của triết học đạo Phật, đại diện quan điểm của Nhân minh học (khoảng năm 635 Tây lịch), và rất nhiều vị học giả ủng hộ, nhà triết học của Nyaya trường phái triết học Ấn Độ Uddyotakara và nhà triết học Ấn Độ giáo và một học giả của trường phái triết học Mimamsa từ đầu thời trung cổ của Ấn Độ Kumārila (khoảng năm 500 Tây lịch). Bồ tát Pháp Xứng nhằm bảo vệ quan điểm của Bồ tát Trần Na, tuy nhiên được biết Ngài đã xuất sắc và làm lu mờ người thầy của mình. (Bhatt 1997)

Thông điệp chính cho các nhà khoa học máy tính, là mục đích chính của biểu diễn tri thức (KR) và trí tuệ nhân tạo (AI), là xác định và làm rõ ràng chức năng logic chính xác (dự định) của một hệ thống, và đảm bảo tính liên tục của nó trong suốt vòng đời. Quan điểm rộng rãi này là cần thiết để tạo ra bất kỳ loại trí tuệ nhân tạo (AI) có đạo đức nào, và để hạn chế nguy cơ dẫn đến hậu quả không mong muốn. 

Ngày nay, chúng tôi đang tham gia vào việc tạo ra và tận dụng trí tuệ nhân tạo (AI). Nhưng trước đây, nhiều thế hệ học giả đã nắm bắt và đại diện cho kiến thức, mặc dù có liên quan đến trí thông minh tự nhiên. Ít nhất, chúng ta nên nhận thức được điều này, và khi thích hợp, hãy tìm kiếm nguồn cảm hứng từ những kho báu Phật pháp. Đỉnh cao sự phát triển của nhân loại, khi ngày nay chúng ta tiến bộ trong việc làm ra trí tuệ nhân tạo (AI), là sự tiếp nối của những nền tảng trước đây. 

* Vấn đề đặc biệt “Biểu diễn tri thức trí tuệ nhân tạo” (Hệ thống)

** Briggs, Rick. 1985. Tạp chí AI “Biểu diễn tri thức bằng tiếng Phạn và trí tuệ nhân tạo”. Tập 6 Tài liệu tham khảo số 1 Bhatt, S. R. 1997. “Logic và Ngôn ngữ trong Phật giáo.” Trong: Brian Carr, Indira Mahalingam (eds.), Đồng hành cùng Bách khoa toàn thư về Triết học Châu Á, London-New York: Routledge.

Tác giả nữ Tiến sĩ Paola Di Maio, một nhà hệ thống học, một nhà nghiên cứu và giám đốc của Trung tâm Hệ thống, Đại diện Tri thức, Khoa học Thần kinh và Đạo đức. Cô cũng là một thành viên tại Viện EuroSPES, Leuven, Bỉ và dành thời gian nhận những trao truyền trực tiếp. Nữ Tiến sĩ Paola Di Maio từng nhập thất tu tập thiền định tại các tu viện Phật giáo ở Hy Mã Lạp Sơn. 


Tác giả: Tiến sĩ Paola Di Maio

Biên dịch: Thích Vân Phong 

(Nguồn: 佛門網)


facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/04/2015(Xem: 8883)
Tờ Thời Luận San Francisco (San Francisco Chronicle) một nhật báo lớn của Mỹ, ngày 17 tháng 9 năm 2008 có đăng một bài mang tựa: "Đạo Ki-tô đang phát triển nhanh chóng ở Mông Cổ, các nhà truyền giáo đã cải đạo cho hàng nghìn người trong khi những người Phật Giáo đang nơm nớp lo sợ là truyền thống văn hóa của mình sẽ bị mất đi" (Christianity growing fast in Mongolia, Missionaries convert thousands while Buddhists fear losing traditional culture), tác giả là Michael Khon một ký giả trong nhóm bình luận gia thời sự quốc tế trong ban biên tập của tờ báo này. Bài báo khá xưa, cách nay đã hơn sáu năm, thế nhưng cũng không hẳn là lỗi thời, bởi vì tình trạng trên đây chẳng những vẫn còn đang tiếp diễn ở Mông Cổ mà cả nhiều nơi khác trên thế giới. Bài báo cũng đã được một trang mạng Phật Giáo có tầm cỡ quốc tế với 9 thứ tiếng khác nhau là Buddachannel dịch sang tiếng Pháp và đăng tải ngày 6 tháng 2 năm 2009, với tựa ngắn hơn: "Phật Giáo Mông Cổ đang bị mất đà" (Le Bouddhisme Mongol en perte de
06/04/2015(Xem: 6462)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”[1] cho thấy tại Giao Châu lúc bấy giờ, đã là một lãnh địa hùng cứ ở phương Nam không thua kém gì nước Tàu tại phương Bắc. Sử gia Lê Mạnh Thát nhận định về điều này như sau trong bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam:
24/03/2015(Xem: 4275)
Tôi vẫn say mê với Phật Giáo Thái Lan từ những hình tượng lạ, bí ẩn trên các trang sách thiếu nhi – đúng ra, một phần là các hình khắc trên tường ở hai vách Chùa Xá Lợi (Sài Gòn). Đây là một ngôi chùa có ngọn tháp kiểu các chùa Bắc Tông Miền Trung, nơi tầng thứ nhì của tháp là thư viện, nơi đầy những kinh sách rất mực bí ẩn đối với bọn thiếu nhi chúng tôi lúc đó. Nhưng các vách tường chính điện là điêu khắc kiểu Phật Giáo Nam Tông, những hình tượng cổ cũng rất mực bí ẩn theo hướng chuyện cổ Jataka Tales.
22/03/2015(Xem: 6570)
Mirza Hussain mới 26 tuổi khi những kẻ chỉ huy khủng bố Taliban ấn vào tay ông khối thuốc nổ và bảo đem nó đặt vào các pho tượng Phật lớn nhất thế giới tại quê hương ông, tỉnh Bamiyan của Afghanistan. Các tượng cổ xưa được khắc sâu vào núi, từng là những pho tượng Phật cao nhất thế giới, đã bị phá hủy trong loạt hành động điên rồ của phiến quân Hồi giáo cực đoan năm 2001. Hành động đó đã tạo tiền lệ nguy hiểm cho những kẻ thuộc Nhà nước Hồi giáo tự xưng tiến hành những cuộc đập phá các di sản kiến trúc và tôn giáo thời gian gần đây.
03/03/2015(Xem: 7900)
Với mục tiêu giúp mọi người hướng đến đời sống tâm linh, tổ chức Dhammakaya đã thiết lập nhiều hoạt động nhằm tác động đến đời sống đạo đức tâm linh xã hội hiện đại, nâng cao phẩm giá của con người, hướng đến một nền hòa bình, hòa hợp cho thế giới mà mọi người chúng ta đang tìm cầu. Thời gian gần đây, hoạt động của Dhammakaya đã thu hút người mộ đạo từ Thái lan đến khắp nơi trên thế giới.Trung tâm luôn duy trì những hoạt động này, vì nó đã đem lại thiết thực cho con người tăng trưởng nhân tâm và phát triển xã hội.
10/02/2015(Xem: 5600)
Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới đã được thành lập 65 năm, Đại hội lần thứ 17 được tổ chức từ 16 đến 18 tháng 10 năm 2014 tại thành phố Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Nói đến lịch sử thành lập Hội, không thể không nhắc đến người đề xướng ý tưởng thành lập đầu tiên là Ngài Thái Hư Đại Sư và người đệ tử lớn của Ngài là Pháp Sư Pháp Phảng. Bài viết này trình bày công đức của Pháp Sư Pháp Phản trong việc thành lập Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới.
07/11/2014(Xem: 27779)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
22/10/2014(Xem: 6595)
ÚC ĐẠI LỢI: Trung tâm Phật học Nam Thiên được xây lên từ khu đất hoang Wollongong, New South Wales – Tại một khu đất hoang được mua từ hội đồng địa phương với giá một đô la, một tòa nhà lấy cảm hứng từ hoa sen đã được xây dựng nên và một ngày nào đó nó có thể là hiện thân của trường đại học Phật giáo đầu tiên của Úc Đại Lợi. “Nó rất có tính biểu tượng – tòa nhà hoa sen vươn khỏi khu đất hoang này”, nhà toán học John Loxton, viện trưởng sáng lập viện Nam Thiên nói. Tọa lạc ở nam Wollongong, tòa nhà trong khuôn viên khu đại học vươn lên không gian với những phần bê tông uốn cong với kiểu dáng đẹp. Bên ngoài, các tấm chắn và ngói màu đất sét của tòa nhà hài hòa với ngôi chùa Nam Thiên có mái đất nung truyền thống nằm liền kề. Giáo sư Loxton nói rằng tất cả đã bắt đầu với các dịch vụ sau đại học về nghiên cứu Phật giáo ứng dụng, và học viện có kế hoạch xây dựng thêm nhiều khóa học hơn để đáp ứng về kinh doanh và cuộc sống chuyên nghiệp. (The Australian – October 15, 2014)
19/10/2014(Xem: 30807)
Cuốn PHẬT GIÁO KHẮP THẾ GIỚI, do Tỷ khưu Nguyên Tạng viết, là một đề tài hấp dẫn mà đáng lẽ phải có từ lâu. Ðối với người con Phật ở Việt Nam / châu Á thì sự kiện nổi bật nhất ở nửa cuối thế kỷ XX không hẳn là cuộc cách mạng Tin học, mà là sự phát triển ngoạn mục của Phật giáo tại Tây AÂu và Bắc Mỹ. Thực ra, cuộc cách mạng giác ngộ nhân chủ khởi nguyên từ hậu bán thế kỷ XVIII là do sự thức tỉnh của giới trí thức phương Tây sớm biết tìm đến với Ðạo Phật, và đã lái lịch sử thế giới đi vào con đường giải thoát thân phận con người khỏi khổ đau, mê tối, và giải phóng các dân tộc nhược tiểu thoát cảnh thù địch, lạc hậu – Phải chờ hơn hai thế kỷ.
16/10/2014(Xem: 9708)
Chaman Lan và một số học giả Hoa Kỳ cho rằng không phải ông Columbus đầu tiên tìm ra Châu Mỹ mà chính những người di dân Hindu từ Ấn Độ. Lý luận mới lạ này được dựa vào một số truyền thống thịnh hành ở Trung Mỹ và Mexico. Nhưng giả thiết này thiếu sự ủng hộ của bằng chứng văn học. Tuy nhiên chúng ta cũng có ít nhất là một điểm được ghi lại trong lịch sử Trung Hoa nói đến một đoàn tu sĩ Phật Giáo đến Châu Mỹ vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch và đã đưa Phật Giáo vào dạy cho những người dân ở đó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567