Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cuộc Đàn áp Dã man tại Mông Cổ bởi Stalin Lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô Hàng vạn nhà sư bị giết hàng nghìn ngôi chùa đổ nát

06/09/202110:00(Xem: 2860)
Cuộc Đàn áp Dã man tại Mông Cổ bởi Stalin Lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô Hàng vạn nhà sư bị giết hàng nghìn ngôi chùa đổ nát

Cuộc Đàn áp Dã man tại Mông Cổ bởi Stalin Lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô 
Hàng vạn nhà sư bị giết hàng nghìn ngôi chùa đổ nát
(Их Хэлмэгдүүлэлт)

Cuộc Đàn áp Dã man tại Mông Cổ bởi Stalin Lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô Hàng vạn nhà sư bị giết hàng nghìn ngôi chùa đổ

Đàn áp Stalin tại Mông Cổ (Их Хэлмэгдүүлэлт) đề cập đến một thời kỳ bạo lực và khủng bố chính trị ở Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ từ năm 1937 đến năm 1939. 

Stalin là vị chúa tể độc tài đã từng cai trị Liên bang Xô Viết bằng bàn tay sắt trong suốt 30 năm trời (1922-1953). Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, là Đại nguyên soái, Tổng tư lệnh tối cao các Lực lượng vũ trang Liên Xô.  

 

Các cuộc đàn áp là một phần của thanh trừng Stalin (còn được gọi là Đại thanh trừng) đang diễn ra trên khắp Liên Xô cùng lúc đó. Các cố vấn Bộ Dân ủy Nội vụ (Народный комиссариат внутренних дел, NKVD) của Liên Xô, dưới sự chỉ định danh nghĩa của Nguyên soái Khorloogiin Choibalsan (Хорлоогийн Чойбалсан), một lãnh tụ cộng sản của Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, đã bức hại các cá nhân và tổ chức bị coi là mối đe dọa đối với cuộc cách mạng Mông Cổ. Như ở Liên bang Xô Viết, các phương pháp đàn áp bao gồm tra tấn, các vụ xử án, hành quyết và giam cầm trong các trại lao động cưỡng bức. Nạn nhân bao gồm những người bị buộc tội ủng hộ chủ nghĩa Lamaism (Phật giáo Tây Tạng), chủ nghĩa dân tộc Mông Cổ, Tu sĩ Phật giáo, quý tộc, giới trí thức, những người bất đồng chính kiến. Những người dân tộc Buryats và người Kazakh cũng bị tổn thất lớn do sự thù ghét của người Nga với các dân tộc này.

Sau cuộc Cách mạng Mông Cổ năm 1921, cuộc đấu tranh trong Đảng Cách mạng Nhân dân Mông Cổ (MPRP) đã dẫn đến một loạt các cuộc thanh trừng chính trị bạo lực. Vào tháng 8 năm 1922, Dogsomyn Bodoo (Догсомын Бодоо), Thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa nhân dân Mông Cổ và 14 người khác đã bị xử tử bởi các điệp viên Liên Xô mà không bị xét xử. Hai năm sau, người tiếp quản Dogsomyn Bodoo, Chủ tịch của Đảng nhân dân cách mạng Mông Cổ (MPRP) Soliin Danzan, bị xử tử ngay trong Đại hội Đảng lần thứ 3. Năm 1928, một số thành viên Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ (MPRP) nổi bật bao gồm Ajvaagiin Danzan, Jamsrangiin Tseveen, Tseren-Ochiryn Dambadorj, và Navaandorjiin Jadambaa, bị cầm tù hoặc bị đày trong một cuộc thanh trừng rộng rãi khi đất nước phát động đàn áp Giáo hội Phật giáo. Sau khi những biện pháp quyết liệt này dẫn đến những cuộc nổi dậy trên khắp đất nước, một số nhà cầm quyền cứng rắn nhất của MPRP bao gồm Zolbingiin Shijee, Ölziin Badrakh, và Thủ tướng Tsengeltiin Jigjidjav bị đổ lỗi và trục xuất khỏi đảng.

Năm 1933–34, trong những gì được xem như diễn tập cho các cuộc đàn áp 1937-1939, Tổng thư ký MPRP Jambyn Lkhümbe và các đảng viên khác, bị cáo buộc về âm mưu với gián điệp Nhật Bản. Hơn 1.500 người đã bị kết án và 56 người bị xử tử.

Đến năm 1934, Thủ tướng Mông Cổ Peljidiin Genden, mệt mỏi vì sự thống trị của Liên Xô, đã trì hoãn Hiệp ước song phương với Liên Xô, trong đó cho phép quân đội Liên Xô đóng quân trong nước Mông Cổ. Ông cũng chống lại áp lực của Moscow kêu gọi giết hơn 100.000 vị Lạt Ma Phật giáo của nước này, mà Stalin gọi là "kẻ thù nhân dân". Thất vọng bởi sự bướng bỉnh của Genden, Stalin đã ủng hộ tướng Khorloogiin Choibalsan làm Nguyên soái và đứng đầu Bộ Nội vụ. Vào tháng 3 năm 1936, Choibalsan dàn xếp việc loại bỏ Genden vì phá hoại các quan hệ Mông Cổ - Xô viết. Genden đã bị bắt và bị gửi đến Moscow, nơi ông bị xử tử một năm sau đó. Mặc dù Anandyn Amar đã trở thành Thủ tướng Chính phủ, nhưng Choibalsan lại trở thành người mạnh nhất trong cả nước.

Trong ba năm tiếp theo, những cố vấn của Liên Xô trong Bộ Nội vụ đã hướng dẫn Choibalsan lên kế hoạch và thực hiện các cuộc thanh trừng. Chẳng bao lâu sau đó, 23 vị Lạt Ma cấp cao Phật giáo Mông Cổ đã bị bắt. Sau một phiên tòa kéo dài một năm, họ đã bị hành quyết công khai vào đầu tháng 10 năm 1937. Khi Tổng trưởng Viện kiểm sát Mông Cổ phản đối việc truy tố các vị Lạt Ma, ông ta cũng bị bắt và sau đó bị bắn.

Vào tháng 8 năm 1937, Nguyên soái Demid, 36 tuổi, vị tướng có sự nổi tiếng mà Choibalsan luôn ganh ghét, đã chết trong đáng ngờ. Ngay sau đó, Choibalsan thâu tóm đồng thời cả chức Tổng tư lệnh quân đội Mông Cổ và Bộ trưởng Quốc phòng. Ngày hôm sau Choibalsan, với tư cách Bộ trưởng Nội vụ, đã ban hành Lệnh 366 tuyên bố rằng nhiều người ở Mông Cổ "đã bị ảnh hưởng bởi các điệp viên Nhật Bản." Cùng tháng đó Stalin đã ra lệnh đóng quân 30.000 quân đội Hồng quân ở Mông Cổ và phái một phái đoàn lớn của Liên Xô đến Ulaanbaatar dưới sự ủy thác của Mikhail Frinovsky. Frinovsky đã thực hiện rất hiệu quả đại thanh trừng ở Liên Xô. Việc bắt giữ 65 quan chức cao cấp và giới trí thức vào đêm ngày 10 tháng 9 năm 1937 báo hiệu sự ra đời của sự thanh trừng một cách nghiêm túc. Buổi thử nghiệm đầu tiên được tổ chức tại Nhà hát Trung tâm của Ulaanbaatar từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 10 năm 1937. 13 trong số 14 người bị cáo buộc đã bị kết án tử hình.

Trong 18 tháng, Choibalsan đã chấp thuận và thực hiện giết hại hơn 18.000 vị Lạt Ma. Các nhà sư không bị hành quyết đã bị đưa vào các lực lượng vũ trang Mông Cổ hoặc bị đưa vào trại lao động cưỡng bức trong khi 746 cơ sở tự viện Phật giáo của nước này bị phá hủy. Hàng nghìn các nhà trí thức, chính trị gia và bất đồng chính kiến ​​được gắn nhãn "kẻ thù của cuộc cách mạng", cũng như các dân tộc Buryats và Kazakh cũng bị giết. 25 người từ các vị trí hàng đầu trong đảng và chính phủ đã bị xử tử, 187 từ lãnh đạo quân sự, 36 trong số 51 thành viên của Ủy ban Trung ương bị giết. Theo mô hình Nga, Choibalsan đã mở các trại tù gulags ở nông thôn để bắt giam những người bất đồng chính kiến. Choibalsan thường xuyên bị say sưa bởi việc tra tấn và thẩm vấn những kẻ phản đối, bao gồm cả bạn bè và đồng chí cũ, khiến ông bị người dân Mông Cổ gọi là ''bạo chúa khát máu''.

Các cuộc thanh trừng tạm lắng vào tháng 8 năm 1938. Choibalsan trở nên điên loạn bởi giết chóc và phải trải qua sáu tháng (tháng 8 năm 1938 - tháng 1 năm 1939) hồi phục ở Moscow và Sochi, nơi ông được gặp Voroshilov, Yezhov, và Stalin. Khi trở về Mông Cổ, Choibalsan theo chỉ thị của Liên Xô lại thanh trừng thủ tướng Amar. Choibalsan tuyên bố Amar "đã giúp các nhà chống chính phủ, phản đối việc bắt giữ họ, và bỏ bê việc bảo vệ biên giới. Ông phản bội đất nước của mình và là kẻ phản bội cuộc cách mạng." Sau một chiến dịch tuyên truyền phối hợp, Amar bị bắt giữ 7 tháng 3 năm 1939 và được gửi đến Liên Xô, nơi mà sau này ông bị Troika của Liên Xô bị xử tử.

Với việc loại bỏ Amar, Choibalsan trở thành lãnh đạo lớn nhất Mông Cổ, giữ đồng thời chức Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Chiến tranh, và Tư lệnh trưởng các lực lượng vũ trang Mông Cổ. Để đảm bảo ở vị trí của mình, Choibalsan đã chối bỏ trách nhiệm về các cuộc thanh trừng, đổ lỗi cho thứ trưởng bộ nội vụ Nasantogtoh. Sau đó, đến lượt các tay chân của Choibasan bị bắt và bị giết, bao gồm Luvsansharav, Bayasgalan, Dashtseveg, và Luvsandorj. Dogsom và Losol, (hai thành viên sống cuối cùng của bảy thành viên sáng lập ban đầu của MPRP), cũng bị bắt. Dogom đã bị xử tử năm 1941. Losol qua đời trong một nhà tù của Liên Xô trước khi vụ án của ông được đưa ra xét xử.

Trước khi thanh trừng kết thúc vào đầu năm 1939, các tầng lớp xã hội Mông Cổ gần như bị phá tan bị trong khi phần lớn di sản văn hóa của Mông Cổ nằm trong đống đổ nát. Khoảng 18.000 vị Lạt Ma Phật giáo đã bị kết án tử hình trong khi hàng nghìn người khác bị buộc phải vào quân đội Mông Cổ. Hơn 700 cơ sở tự viện Phật giáo đã bị phá hủy. Tầng lớp người cách mạng cũ, được xem là người theo chủ nghĩa dân tộc chủ nghĩa, đã bị loại bỏ thay vào đó là những lãnh đạo tay sai của Liên Xô; 25 người từ các vị trí hàng đầu trong đảng và chính phủ đã bị xử tử (bao gồm cựu thủ tướng Peljidiin Genden và Anandyn Amar), 187 từ lãnh đạo quân sự, và 36 trong số 51 thành viên của Ủy ban Trung ương bị thanh trừng.

Vào thời điểm qua đời vào năm 1952, Choibalsan được coi một anh hùng, một người yêu nước. Sự giận dữ của công chúng đối với bạo lực của thanh trừng rơi chủ yếu vào Liên Xô và Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD), với Choibalsan họ dành cho ông cái nhìn thông cảm như một con rối với ít sự lựa chọn nhưng phải làm theo chỉ dẫn của Moscow. Tuy nhiên, với sự kết thúc của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa vào năm 1990, nhiều sự thật phơi bày đã chứng tỏ Choibalsan thực chất là một lãnh đạo khát máu, trực tiếp thực hiện thanh trừng nhưng sau đó chối bỏ trách nhiệm. Năm 1991, hàng loạt các ngôi mộ tập thể được phát hiện gần Mörön, và năm 2003 ở Ulaanbaatar. Xác chết của hàng trăm vị Lạt Ma và thường dân đã được khai quật, tất cả đều bị giết chỉ bằng một cú bắn vào sọ. Đồng thời, đã có những nỗ lực phối hợp của nhiều nhóm khác nhau để khôi phục lại nhiều ngôi chùa và tu viện bị phá hủy trong các cuộc thanh trừng.

Cuộc Đàn áp Dã man tại Mông Cổ bởi Stalin Lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô Hàng vạn nhà sư bị giết hàng nghìn ngôi chùa đổ


Kể từ khi cuộc Cách mạng Dân chủ 1990 tại Mông Cổ (Ардчилсан хувьсгал), đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong việc xem xét, và phân tích việc đàn áp chính trị. Tuy nhiên, nhiều thắc mắc vẫn chưa được giải đáp. Vấn đề quan trọng và khó giải quyết nhất là ai là thủ phạm, trách nhiệm của họ phải làm gì. Để tìm câu trả lời cho những câu hỏi này, cần phải tăng cường nghiên cứu và trước hết là cung cấp quyền truy cập miễn phí vào các kho lưu trữ. 

Điều này sẽ giúp xác định tội lỗi của cá nhân, Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ (MPRP) và Đảng Cộng sản Liên Xô. Liên quan đến vấn đề này, cần phải tổ chức một cuộc hội thảo khoa học công khai rộn rãi về quá khứ lịch sử tội ác của bành trướng Cộng sản Liên Xô. Điều này sẽ cho phép người dân Mông Cổ hiểu rõ hơn về lợi ích của một xã hội dân chủ. Đảng Dân chủ Mông Cổ (Ардчилсан Нам), nổi lên từ các cuộc biểu tình năm 1990, có thể chịu trách nhiệm dẫn đầu cuộc tham vấn cộng đồng. Đến nay Đảng Dân chủ Mông Cổ đã mắc phải sai lầm trong việc đánh giá những sai lầm trong quá khứ của Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ (MPRP), và trong việc phân tích sự đàn áp chính trị dã man do Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Stalin cầm đầu. Khi Đảng Dân chủ nắm quyền Mông Cổ, có thể tăng cường công việc này. Ví dụ, Ủy ban Xã hội Dân sự của Bang Atonement, khi đó đã có cơ hội được chuyển đổi thành một Ủy ban độc lập. 

Về hoạt động và tổ chức của Ủy ban, quý vị có thể xem công việc của Ủy ban xét duyệt tài liệu của Bộ Quốc phòng Đức tại Đức Quốc. Roland Young, Chủ tịch của tổ chức, nói về bản chất công việc của tổ chức: "Chúng ta càng hiểu rõ về chế độ Cộng sản độc tài, chúng ta càng có thể xây dựng nền dân chủ tốt hơn". Ở đây cần lưu ý rằng kể từ khi cuộc Cách mạng Dân chủ 1990 tại Mông Cổ cho đến nay, nhưng từ dân chủ vẫn không mất đi ý nghĩa đối với đất nước con người Mông Cổ. Việc kiểm điểm vụ đàn áp chính trị vẫn chưa kết thúc. Cần phải tổ chức công việc này như một quá trình quy mô lớn có sự tham gia của xã hội. 


Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Konrad Adenauer Stiftung)

facebook-1

***
youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2011(Xem: 5534)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
11/08/2011(Xem: 3826)
Hệ thống đẳng cấp đã tồn tại ở Ấn hàng nghìn năm trước và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của người dân Ấn hiện nay. Hệ thống đẳng cấp, như thường được biết, có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo, hay nói khác đi là một sản phẩm của Bà La Môn giáo. Nhưng về sau, hệ thống đẳng cấp đã vượt ra khỏi Bà La Môn giáo và xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những tôn giáo có nguồn gốc bên ngoài Ấn Độ. Bài viết này tìm hiểu một vài khía cạnh về hệ thống đẳng cấp trong các tôn giáo ở Ấn Độ.
07/07/2011(Xem: 28276)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 5664)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 8400)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 4809)
Một sự trình bày rõ ràng và trung thực về Phật giáo Tây Tạng, quyển sách này trình bày căn bản của Phật pháp theo một đường lối mà mọi người đều có thể hiểu được khi đọc và dễ dàng tu tập trong cuộc sống hàng ngày. Được soạn thảo riêng cho những người mới tìm hiểu vấn đề này lần đầu tiên, quyển sách này cũng còn cung cấp những kiến thức quý báu cho những đệ tử đã thông hiểu Phật giáo Tây Tạng.
22/06/2011(Xem: 3619)
Cách đây không lâu, cả thế giới đã lên tiếng phản đối hành động điên cuồng phá hủy hai tôn tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới tại Bamiyan (Afghanistan) của chính quyền Taliban cực đoan. Sau hành động phá hoại đó, không ít người ngỡ rằng những di tích nền văn minh cổ xưa của Phật giáo tại nơi đây đã bị hủy diệt hoàn toàn; tuy nhiên, điều đó thực tế đã không phải như vậy. Cách đây gần một thập niên, giới khảo cổ học đã khai quật và phát hiện ở Bamiyan những di liệu văn học Phật giáo hết sức kỳ diệu, những minh chứng hùng hồn cho một giai đoạn phát triền rực rỡ của Phật giáo tại nơi này một trung tâm Phật giáo quan trọng ngoài Ấn Độ. Sự phát triển đó đá tạo nên một nền văn minh riêng biệt, gọi là nền văn minh Phật giáo Gandhàra.
20/06/2011(Xem: 7248)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 3960)
Phong trào Phật giáo nhân gian (人間佛教) xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Từ những năm thập niên 80 thế kỷ trước, phong trào này trở thành một khuynh hướng chính của Phật giáo ở Trung Hoa lục địa, Đài Loan và Hồng Kông, vượt thoát những khác biệt tông phái và vùng miền. Cho dù ở bên trong phạm vi Phật giáo, hay ở trong giới học giả hay các phân khoa hành chính tôn giáo, mỗi khi thảo luận về tình hình hiện nay và việc phát triển Phật giáo Trung Quốc trong tương lai, người ta không thể bỏ qua chủ đề Phật giáo nhân gian.
10/06/2011(Xem: 5173)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567