Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một nhà sư Phật giáo tranh đấu cho Hòa Bình

10/04/201313:24(Xem: 3981)
Một nhà sư Phật giáo tranh đấu cho Hòa Bình

Một nhà sư Phật giáo
tranh đấu cho Hòa Bình

Có một nhà sư rất khiêm tốn, chỉ tự nhận là một người tu hành, một nhà sư Phật giáo mà thôi. Ngài tên là Tenzin Gyatso, sinh năm 1935. Nhưng người ta lại gán cho Ngài cái tước hiệu là Đạt-Lai Lạt-Ma thứ XIV, và Ngài đã nhận giải Nobel Hoà Bình vào tháng 9 năm 1989. Ngài rất yêu thương con người, nhân loại và dân tộc của Ngài.

dalailama-ttbush

Hình chụp tại Tòa Bạch Ốc ngày 21 tháng 5 năm 2001, trong dịp Đức Đạt-Lai Lạt-Ma yết kiến Tổng thống George W. Bush của Mỹ.

Sau cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất vào năm 1991 trên đất xứ Kuwait, một tờ báo Mỹ đã phỏng vấn Đức Đạt-Lai Lạt-Ma và Ngài trả lời như sau : « Tôi không thể nào chỉ phản đối một mình Saddam Hussein được, như thế là không phải. Có thể đấy là một người xấu, nhưng nếu không có quân đội, thì ông ta cũng không thể hung hãn đến như thế ; và tiếp theo, nếu không khí giới, thì quân đội của ông ta cũng chẳng làm gì được. Những khí giới ấy không phải xứ Iraq sản xuất ra. Ai bán những khí giới đó cho họ ? Chính là Tây phương ! »

Đức Đạt-Lai Lạt-Ma vẫn thường nói rằng một cuộc chiến chỉ để chuẩn bị cho một cuộc chiến khác mà thôi. Thật vậy chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai xảy ra ngay trên đất Iraq của chính Saddam Hussein. Dù nhất định không thể nào chấp nhận một cá nhân hung bạo và độc ác, nhưng ta không thể đơn giản kết tội một con người. Sự xét đoán của ta thường vô cùng hạn hẹp và thiển cận trước những phức tạp của xã hội nói chung, trong đó có kinh tế, chính trị, văn hoá, tín ngưỡng…, cũng như những phức tạp trong tâm thức của từng người, và cả trong tâm thức tập thể của từng nhóm người trong xã hội. Những phức tạp này là những gì mà Phật giáo gọi là sự tương liên, tương kết và tương tạo của mọi vật thể và mọi hiện tượng.

Sự phức tạp trong tâm thức là do những xúc cảm bấn loạn gây ra bởi hận thù, ghét bỏ, bám níu…, bởi những vết hằn trong tiềm thức hay a-lại-gia thức, những xu hướng mà ta thụ hưởng từ muôn ngàn kiếp trước. Vậy ta hãy nhìn lại và tìm hiểu tâm thức ta trước đã, xem tâm thức đó có tinh khiết hay không, trước khi ta xử dụng nó để xét đoán và kết tội kẻ khác. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma vẫn thường nói « kẻ thù của ta là người bạn tốt nhất cho ta. Người bạn đó giúp ta phát huy sự kiên nhẫn và sức nhẫn nhục », một người bạn tốt, bên cạnh ta, chưa chắc đã giúp ta được điều này.

Cách nay đã nhiều năm khi Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thuyết giảng ở Ái Nhĩ Lan (Ireland) Ngài đã nhắc nhở các vị lãnh đạo Cơ đốc giáo như sau : « Quý vị đã có sẵn tôn giáo của quý vị, thì không cần phải trở thành người Phật giáo để thiền định, để giải quyết những vấn đề của quý vị, nhưng quý vị phải cần có một nền đạo đức [….] và cần tin tưởng vào một số giá trị sơ đẳng nào đó của con người». Những lời phát biểu thẳng thắn và trung thực của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã hơn một lần được nhiều nhà lãnh đạo và dư luận quần chúng trên thế giới kính nể. Vị tổng trưởng của nước Anh, phụ trách về Ái Nhĩ Lan lúc bấy giờ, là Peter Mandelson, đã đáp lại lời tuyên bố trên đây của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma như sau : « Chúng tôi xin mang theo với chúng tôi những lời nói của Ngài, có thể, và hơn như thế nữa, cả những giá trị và tinh thần đã khơi động những lời nói đó».

Vào tháng 11 năm 1991, trong một thông điệp gởi cho nước Nam tư (Yugoslavia), Ngài đã kêu gọi như sau : « Tôi xin tất cả hãy ngưng cuộc chiến này, nó không có ý nghĩa gì cả. Sự hung bạo phải chấm dứt bằng bất cứ giá nào. Không có một giải pháp thật sự và lâu bền nào có thể đem đến bằng sự hung bạo».

Vào năm 1993, sau những cuộc khủng bố bằng cách cài bom giết hại hàng trăm người ở Bombay, và trước cảnh dân chúng vừa hỗn loạn vừa chạy ngược xuôicứu giúp nhau, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã tuyên bố như sau : « Nhữngngười dân thường đã phản ứng với tình nhân loại và với lòng từ bi, đã cứu giúp những người khổ đau. Họ cứu giúp kẻ khác để nhanh chóng tái lập lại một đời sống bình thường...Chúng ta phải tập hành động, không phải cho chính chúng ta, cho gia đình chúng ta, cho tổ quốc chúng ta, mà chung cho cả nhân loại. Nguyên tắc của trách nhiệm toàn cầu là cơ sở cho hạnh phúc cá nhân và cho hoà bình trên toàn thế giới».

Báo chí và dư luận thế giới thường xếp ngang hàng ba vĩ nhân của nhân loại thuộc vào thời đại chúng ta là Rabindranath Tagore, Mohadas Karamchand Gandhi, và Đức Đạt-Lai Lạt-Ma. Riêng thiển ý của tôi, quả thật khó so sánh và xếp chung ba vĩ nhân đó với nhau. R. Tagore (1861-1941) là một thi hào thần bí, thấm đượm tinh thần yêu nước, ông cũng là một nhà văn, một nhạc sĩ và họa sĩ, đồng thời cũng là dịch giả chuyên về các tác phẩm của André Gide. Ông đoạt giải Nobel văn chương năm 1913. M.K. Gandhi (1869-1948) là một triết gia, một người tu khổ hạnh, chủ trương bất bạo động để giành lại độc lập cho riêng nước Ấn độ. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma là một người tu hành tinh khiết, biểu tượng của một tôn giáo lớn trên toàn cầu, chủ trương bất bạo động và giải thoát tất cả mọi con người hay nhân loại nói chung.

Trong lúc cuộc chiến tranh mở ra trên xứ Iraq, vị sư Phật giáo, sứ giả của Hòa Bình, lại tuyên bố như sau : « Ngày nay, những biến đổi lớn lao đang đánh thức lương tâm của cả thế giới. Người ta đã hiểu rằng không có thể giải quyết các vấn đề bằng chiến tranh được. Thật hết sức rõ ràng, chiến tranh tạo ra những người chiến thắng, nhưng chỉ tạm thời mà thôi. Vinh quang hay bại trận cũng không kéo dài được bao lâu. Hơn nữa, thế giới của chúng ta hôm nay liên đới với nhau quá chặt chẽ, sự bại trận của một nước cũng tác động đến tất cả các nước khác. [...] Khái niệm về chiến tranh dường như đã cổ hủ, giống như một cách xử lý lỗi thời». Ngài lại nói thêm là trong một cuộc chiến, những người thật sự thiệt thòi là những kẻ nghèo và những người không có gì để tự vệ, « họ là những người vô tội».

Sau những vụ thử bom hạt nhân của Ấn độ vào năm 1998, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã tuyên bố như sau : « Vũ khí hạt nhân thật hết sức nguy hiểm ; chúng ta phải nỗ lực dốc sức cố gắng để loại trừ những vũ khí này». Chẳng những ta không thấy Ngài lên án Ấn độ trong việc này, nhưng lại thấy Ngài tuyên bố tiếp như sau : « Mặc dù vậy, nếu cho rằng chỉ một vài quốc gia được quyền có bom hạt nhân và các quốc gia khác không được, thì không dân chủ một chút nào». Ngày nay, lại thêm một quốc gia nữa đang ngấp nghé muốn chế tạo bom hạt nhân.

Sau thảm trạng ngày 11 tháng 9, không tặc đánh sập hai tòa nhà chọc trời ở Nữu Ước, và trong lúc Tổng thống Mỹ George W. Bush đang âm mưu trả thù, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã bày tỏ sự đau buồn và phân ưu với Tổng thống Bush về thảm trạng 11 tháng 9 bằng một bức thư, trong đó có câu kết luận như sau : « Có lẽ tôi hơi chủ quan, nhưng theo thiển ý tôi thì chúng ta cũng nên đặt lại vấn đề một cách hết sức cẩn thận để xem rằng dùng bạo lực trong lúc này có phải là điều nên làm hay không. Quả là một câu hỏi rất khó khăn. Tôi tin chắc ràng ngài sẽ chọn được một giải pháp đúng đắn».

Để kết thúc cho bài viết ngắn này, tôi chắp tay xin được phép mượn câu kết luận trong bức thư của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma gởi cho Tổng thống Mỹ, để đem gởi lại một lần nữa cho mỗi người trong chúng ta. Dù chúng ta không có tầm vóc của một vị tổng thống, của một nhà lãnh đạo, chúng ta chỉ là những chúng sinh tầm thường, nhưng nếu tất cả chúng ta, bất cứ ở đâu trên thế giới này, bất cứ thuộc một nền văn hoá nào hay trào lưu tín ngưỡng nào, nếu chúng ta biếtsuy nghĩ thật cẩn thận và chọn được một giải pháp đúng đắn cho những hành vi dù nhỏ nhoi của chính ta, không dựa trên hung bạo và hận thù, như Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã khuyên Tổng thống Mỹ, thì biết đâu cũng sẽ không còn có chiến tranh trên địa cầu này nữa. Ước mong lắm thay.

HOANG PHONG

Bures-Sur-Yvette (Pháp Quốc), 15.01.07

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/01/2022(Xem: 3540)
Thầy Claude Anshin Thomas sinh năm 1947, gốc người Mỹ, Thiền giả, diễn giả, học giả về Công lý & Hòa bình, Giáo thụ Thiền học, nhà văn quốc tế, chiến sĩ hòa bình ủng hộ bất bạo động. Đến tuổi thanh xuân, Thầy từng là một cựu chiến binh Hoa Kỳ tham gia chiến tranh chống Cộng sản tại chiến trường Việt Nam. Khi về quê nhà Hoa Kỳ, sau những lần bệ kiến Thiền sư Thích Nhất Hạnh và kết duyên Bồ đề quyến thuộc Phật pháp với Thiền sư Cư sĩ Bernie Glassman (1939-2018), vị Thiền giả, một nhà tiên phong nổi tiếng thế giới trong phong trào Thiền Phật giáo Hoa Kỳ, nhà lãnh đạo tinh thần, tác giả, nhà xuất bản, một nhà tiên phong trong Doanh nghiệp Xã hội Phật giáo bền vững; Thầy Claude Anshin Thomas đã nhận thức được ý nghĩa là hòa bình bất bạo động, biến súng đạn thành chất liệu Từ bi để hóa giải hận thù và năm 1995 Thầy xuất gia theo thiền phái Tào Động Phật giáo Nhật Bản, trở thành vị thiền giả nổi tiếng. Thầy truyền đạt giáo lý Thiền đạo Phật theo cách thức phi tôn giáo, trực tiếp và đúc
13/01/2022(Xem: 3329)
Cư sĩ WS Merwin, cựu Viện trưởng Học viện Nhà thơ Hoa Kỳ, một bậc thầy thơ đa năng người Mỹ, với nhiều phong cách khác nhau, đã sáng tác hơn 50 tác phẩm thơ và văn, nhiều tác phẩm chuyển dịch.Trong phong trào chống chiến tranh vào những thập niên 1960, các tác phẩm độc đáo của ông được đặc trưng bởi lối kể chuyện gián tiếp, không ngắt quãng. Trong những thập niên 1980-1990, việc sáng tác của ông lấy cảm hứng từ triết lý đạo Phật và sinh thái sâu sắc.
13/01/2022(Xem: 3073)
Moscow chưa bao giờ thiếu vắng Giáo đường. Trước cuộc Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, thậm chí còn có một biểu đạt đặc biệt, "bốn mươi bốn", được sử dụng để miêu tả số lượng Giáo đường trong thành phố (nghĩa là 40 nhân 40, tức là 1.600, hoặc chỉ "rất nhiều"). Ngày nay, Moscow có Giáo đường Chính thống giáo Nga, Công giáo La Mã, Anh giáo và Cộng đồng các Giáo hội Luther, cũng như các nhà thờ Hồi giáo và Hội đường Do Thái giáo. Hầu hết tất cả người Muscovite và du khách thập phương đến thành phố có thể nhìn thấy nơi thờ phụng cho riêng mình, ngoại trừ các Phật tử. Các thành viên tôn giáo này, một trong ba tín ngưỡng chính trên thế giới, chưa có một nơi thờ phụng ở Moscow.
11/01/2022(Xem: 2725)
Sự sụp đổ của Đế quốc Nga và sự trỗi dậy của Chủ nghĩa Cộng sản là một tai họa khủng khiếp đối với đạo Phật. RIR - Russia Beyond đăng tin bằng tiếng Nga cho biết thời kỳ đen tối này bởi đạo Phật bắt nguồn từ Ấn Độ. Sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, Phật tử, cùng với các tín đồ tôn giáo khác là mục tiêu đàn áp của nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Liên Xô (tân chính phủ). Vào đầu những thập niên 1940, khi các tôn giáo hoàn toàn bị biến mất, thực tế bởi không còn tu sĩ tôn giáo hay chùa chiền và nhà thờ, thánh đường nào nữa tại Liên Xô.
11/01/2022(Xem: 3198)
Nhân dịp kỷ niệm 75 năm thành lập Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) và kỷ niệm 30 năm ngày Thành lập Văn phòng Đại diện UNESCO tại Vương quốc Phật giáo Campuchia, một buổi tiệc chiêu đãi đối tác đã được tổ chức tại Văn phòng Đại diện UNESCO tại thủ đô Phnom Penh vào cuối tháng 12 năm 2021.
11/01/2022(Xem: 2463)
Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane (Sangha College in Vientiane, Laos) được thành lập vào năm 1929 (PL.2472), do Vương thân Phetsarath Rattanavongsa (1890-1959) và Trưởng lão Hòa thượng Somdet Phra oukeo Outhen Sakda, Tăng thống Vương quốc Phật giáo Lào và Thống đốc Vientiane kiến lập.
08/01/2022(Xem: 3865)
Đại học Phật giáo Nālandā Malaysia -Giáo dục toàn diện, Phát triển Con người toàn diện" (Nālandā Institute Malaysia -Holistic Education for Integral Human Development). Đại học Phật giáo Nālandā Malaysia (NIM) đã được hình thành vào tháng 01 năm 2006, nhằm đáp ứng nhu cầu của cộng đồng Phật giáo, để có một cơ sở giáo dục Phật giáo tại Malaysia. Cố vấn tinh thần cho Hội Phật giáo Nālandā, Hòa thượng Tiến sĩ Kirinde Sri Dhammananda Nayaka Thera đáng kinh, đã cho thấy sự ủng hộ rõ ràng với ý tưởng của Ngài.
08/01/2022(Xem: 6208)
Taxila: Trong một cuộc khai quật một Bảo tháp Phật giáo tại Ban Faqiran, nhà Khảo cổ học của Bộ Liên bang Khảo cổ học đã phát hiện đồ cổ quý hiếm, trong đó có một đồng xu bằng đồng từ thời Vương triều Mughal, một đế quốc Hồi giáo (chịu ảnh hưởng từ nền văn hoá Ba Tư) ở Tiểu lục địa Ấn Độ đã ra đời vào năm 1526, nắm quyền kiểm soát trên phần lớn tiểu lục địa trong các thế kỷ 17 và 18, và cáo chung vào giữa thế kỷ 19.
08/01/2022(Xem: 3345)
Ung Chính lên ngôi lấy hiệu "Thuận Trị Hoàng đế, 順治皇帝" từ nhỏ đã thích đọc kinh sách Phật giáo, quảng giao tăng chúng, tinh thông Phật lý. Vua học thiền với Quốc sư Chương Gia, được hướng dẫn Thiền tọa liên tục trong hai ngày, đương thời Quốc sư Chương Gia (章嘉國師) khen ngợi vua có Chủng Tính Tối Thượng Thừa, khuyến khích bế quan nhập Thất Thiền tu, 14 ngày đêm miên mật tham cứu công án thoại đầu...
08/01/2022(Xem: 5174)
Bengal cổ đại là một trung tâm chính của Phật học, nghệ thuật và chủ nghĩa đế quốc; quả thực, đạo Phật là nền tảng của di sản văn hóa và ngôn ngữ của Bengal - bài thơ đầu tiên ở Bengali là Charyapada, được sáng tác bởi Chư tôn thiền đức Tăng già Phật giáo thời bấy giờ. Các Charyapada là tập hợp các bài thơ Thần kỳ, những bài tán thán sự chứng ngộ trong Kim Cương thừa truyền thống của Phật giáo mật tông ở các nơi Assam, Bengal, Bihar và Orissa. Theo các học giả đương đại, thuật ngữ Dharma trong tiếng Bengal có nghĩa là "Bauddha Dharma" (Buddhadharma) hoặc Phật pháp (佛法) và thuật ngữ Dharmapuja có nghĩa là "Buddhapuja". Khi Phật giáo bắt đầu suy tàn ở nhiều nơi khác nhau của Ấn Độ, nơi trú ẩn cuối cùng của Phật giáo là ở Bengal.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567