Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tháp Đại Giác là di sản của thế giới

10/04/201312:27(Xem: 4912)
Tháp Đại Giác là di sản của thế giới


THÁP ĐẠI GIÁC LÀ
DI SẢN CỦA THẾ GIỚI

Thích Lệ Thọ

Ngày 27/06/2002, Unesco đã chính thức ghi nhận Tháp Đại Giác là di sản của nhân loại. Có thể nói đây là một tín hiệu đầy hoan hỷ cho cộng đồng Phật giáo trên thế giới nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Từ nay, tất cả những người con Phật không còn lo lắng trước những “bạo lực” và “cuồng tín” của các tôn giáo cực đoan đã và đang tìm cách ngăn chặn sự phát triển và hủy diệt các Thánh địa Phật giáo.

Ngôi tháp Đại Giác hùng vĩ đứng sừng sững với chiều cao khoảng 52m (170 feet) mỗi cạnh vuông là 15m (50 feet), đã được xây dựng vào thế kỷ thứ hai sau Tây lịch. Nó được xây dựng trên nền tháp cũ của ngôi tháp A-dục vương và toà Kim Cang vẫn giữ đúng vị trí nguyên thỉ nơi đức Phật ngồi chứng đắc chân lý. Ngọn của tháp có hình chóp nhọn vươn cao. Mỗi 4 mặt của tháp được khắc chạm tinh xảo theo những kiến trúc của các triều đại Huvishka, sau vua Ca-nị-sắc-ca (Kanishka). Bên trong của Tháp được tôn trí một tượng Phật bằng đá mạ vàng với chiều cao khoảng 2m, tượng được tạc vào khoảng năm 380 sau Tây lịch. Tượng Phật với nét điêu khắc tài hoa mang vóc dáng đặc biệt giúp cho những người hành hương khi đến nơi này sẽ được gợi nhớ lại sự kiện giác ngộ vĩ đại của đức Phật.

Vào năm 600 sau Tây lịch vua Brahmin của xứ Bengal, người rất kỳ thị với Phật giáo nên đã đốt phá tháp và hủy hoại cội Bồ đề. Hai mươi năm sau RajaPurna Varma, một vị vua mộ đạo Phật đã cho phục sinh lại cây Bồ đề, kiến tạo lại tháp và cho xây một tường rào cao 7m (24 feet) để bảo vệ. Từ đó về sau, khu Thánh địa này đã trãi qua không biết bao nhiều lần bị phá hoại bởi người Hồi Giáo và Ấn Độ giáo, khi Phật giáo bị suy tàn vào thế kỷ thứ 13. Đến nỗi ông Edwin Arnorld, tác giả nổi tiếng trên thế giới với tác phẩm “Ánh Sáng Phương Đông” đã diễn tả sự thờ ơ và hoang phế Thánh địa: “Quả thật, Phật giáo thế giới đã quên đi Thánh địa này, và mọi người chỉ biết đến Mecca, Jerusalem…Khi tôi lưu lại Bồ-đề đạo tràng, tôi thật sự đau lòng khi thấy hàng ngàn những di sản cổ quí giá, những tảng đá có khắc chữ Sanskrit nằm ngổn ngang chồng chất quanh đây”

Do sự lãng quên nơi đức Phật giác ngộ, ngài Anagarika Dharmapala đã vận động lấy lại quyền điều hành từ người Ấn giáo. Ngài kiên quyết từng bước ngăn chặn những việc lấn chiếm, phá hoại…của ngoại đạo. Chính vì vậy, nơi này thường xãy ra các cuộc xung đột, Phật giáo luôn nhận sự thiệt thòi. Mãi đến khi Ấn Độ độc lập, chính phủ tại Bihar mới ban đạo luật quản lý khu vực Bồ-đề đạo tràng vào năm 1949 và 1952 chính phủ Ấn độ mới thành lập một ủy ban quản trị để điều hành và gìn giữ những di sản. Ủy ban này gồm có tám thành viên, 4 tăng sĩ Phật giáo và 4 vị Ấn giáo cộng với một quận trưởng Gaya làm chủ tịch. Mặc dù, ngày nay khu Thánh địa chưa thoát khỏi sự kiềm tỏa của người Ấn Giáo, nhưng tranh chấp không còn xãy ra như trước nữa, tạo nên một không khí trang nghiêm thanh tịnh cho nơi này, nên Tiến sĩ A.D.T.E. Perera nhận định: “Ngày nay, Buddhagaya là nơi thu hút giới Phật giáo và các phái đoàn hành hương đến viếng thăm quanh năm. Như một điều kỳ diệu, Buddhagaya, một ngôi làng tầm thường, cổ xưa đã được chuyển hoá trong chốc lát. Giờ đây, Buddhagaya đang hoạt động mạnh mẽ trong đời sống, và một lần nữa, Buddhagaya có triển vọng là một trung tâm của Phật giáo thế giới”

Với sự ủng hộ của Unesco lần này, toàn thể những người con Phật khi đến đây đều hoan hỷ, vì từ nay Phật giáo không còn đơn độc gìn giữ Thánh địa và cũng không còn lo lắng bị phá hoại. Họ đã phối hợp với ủy ban điều hành Bồ-đề đạo tràng và ngành khảo cổ học của tiểu bang Bihar để phục chế lại toàn bộ tháp Đại Giác bằng chất liệu truyền thống của Ấn Độ:

1/ Đất đỏ.

2/ Vỏ của cây bố.

3/ Trái Đào tiên

4/ Mật đường

5/ Vôi.

Đại đức Bodhipala, người chịu trách nhiệm giám sát công trình phục chế cho chúng tôi biết, với những chất liệu này thì hơn hẳn xi-măng, tuổi thọ của chất liệu này có thể tồn tại khoảng 300 năm, sau thời gian đó mới làm lại một lần nữa. Nên các nghệ nhân đang nhè nhàng tháo gỡ toàn bộ các hoa văn trước đây đã làm bằng xi-măng, để thay vào đó những chất liệu truyền thống. Sau khi hoàn tất, tháp Đại Giác sẽ có một màu đất nung, như các tháp của người Chàm, chắc chắn là sẽ đẹp hơn bây giờ! Công trình được dự kiến là khoảng 2 năm, cho công việc phục chế. Có tất là 35 người, 10 nhà điêu khắc và 20 người phụ việc đang cần mẫn đắp từng chút vật liệu đặc biệt thành các hoa văn, các đường cong cầu kỳ cổ kính của văn hoá Ấn Độ một cách nhẫn nại! Tổng chi phí dự tính cho công trình là 53 Lahks = 132500 USD. Sau khi hoàn tất, Unesco sẽ hoàn lại ủy ban điều hành Bồ-đề đạo tràng và ngành khảo cổ học của tiểu bang Bihar.

Nhìn tháp Đại Giác đang được “thay đổi làn da” sau hàng trăm thế kỷ như thể đang hồi sinh để mang lại một sức sống mới cho Thánh địa. Lòng tôi chợt dâng lên niềm kính tiếc, phải chi nhân loại sớm văn minh hơn bây giờ thì Trường đại học Nalanda ngày xưa và 2 tượng Phật được điêu khắc từ thế kỷ thứ 2 ở Afghanistan đâu có bị hủy diệt, làm mất đi của nhân loại những kiệt tác vô song!

Delhi, 04.08.2002

Lệ Thọ


---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2011(Xem: 5554)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
11/08/2011(Xem: 3835)
Hệ thống đẳng cấp đã tồn tại ở Ấn hàng nghìn năm trước và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của người dân Ấn hiện nay. Hệ thống đẳng cấp, như thường được biết, có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo, hay nói khác đi là một sản phẩm của Bà La Môn giáo. Nhưng về sau, hệ thống đẳng cấp đã vượt ra khỏi Bà La Môn giáo và xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những tôn giáo có nguồn gốc bên ngoài Ấn Độ. Bài viết này tìm hiểu một vài khía cạnh về hệ thống đẳng cấp trong các tôn giáo ở Ấn Độ.
07/07/2011(Xem: 28326)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 5688)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 8430)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 4821)
Một sự trình bày rõ ràng và trung thực về Phật giáo Tây Tạng, quyển sách này trình bày căn bản của Phật pháp theo một đường lối mà mọi người đều có thể hiểu được khi đọc và dễ dàng tu tập trong cuộc sống hàng ngày. Được soạn thảo riêng cho những người mới tìm hiểu vấn đề này lần đầu tiên, quyển sách này cũng còn cung cấp những kiến thức quý báu cho những đệ tử đã thông hiểu Phật giáo Tây Tạng.
22/06/2011(Xem: 3628)
Cách đây không lâu, cả thế giới đã lên tiếng phản đối hành động điên cuồng phá hủy hai tôn tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới tại Bamiyan (Afghanistan) của chính quyền Taliban cực đoan. Sau hành động phá hoại đó, không ít người ngỡ rằng những di tích nền văn minh cổ xưa của Phật giáo tại nơi đây đã bị hủy diệt hoàn toàn; tuy nhiên, điều đó thực tế đã không phải như vậy. Cách đây gần một thập niên, giới khảo cổ học đã khai quật và phát hiện ở Bamiyan những di liệu văn học Phật giáo hết sức kỳ diệu, những minh chứng hùng hồn cho một giai đoạn phát triền rực rỡ của Phật giáo tại nơi này một trung tâm Phật giáo quan trọng ngoài Ấn Độ. Sự phát triển đó đá tạo nên một nền văn minh riêng biệt, gọi là nền văn minh Phật giáo Gandhàra.
20/06/2011(Xem: 7293)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 3988)
Phong trào Phật giáo nhân gian (人間佛教) xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Từ những năm thập niên 80 thế kỷ trước, phong trào này trở thành một khuynh hướng chính của Phật giáo ở Trung Hoa lục địa, Đài Loan và Hồng Kông, vượt thoát những khác biệt tông phái và vùng miền. Cho dù ở bên trong phạm vi Phật giáo, hay ở trong giới học giả hay các phân khoa hành chính tôn giáo, mỗi khi thảo luận về tình hình hiện nay và việc phát triển Phật giáo Trung Quốc trong tương lai, người ta không thể bỏ qua chủ đề Phật giáo nhân gian.
10/06/2011(Xem: 5193)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567