Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Những năm đầu đời

27/11/201310:30(Xem: 19494)
02. Những năm đầu đời
Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
Tác giả: Diki Tsering
Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup
Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering
Việt dịch: Thích Nguyên Tạng
Diễn đọc: Pt Quảng An


2. Những năm đầu đời của tôi




Vài ngày trước khi tôi ra đời, ông nội tôi đến gặp một vị lạt ma ở địa phương. Ông nhất định nói rằng đứa cháu sắp chào đời sẽ là con gái. Ông nói: "Tôi cảm thấy điều này ở trong xương tủy. Nó sẽ là một người danh tiếng. Xin giúp con tìm một cái tên cho đứa con gái đặc biệt này, nó sẽ trở thành một người đàn bà đặc biệt về sau". Sau vài lời cầu nguyện và nhiều giờ xem số, cái tên Sonam Tsomo được quyết định chọn, Sonam nghĩa là "phồn thịnh" (fertility) và Tsomo là nữ thần trường thọ (goddess of longevity).

Trong truyền thống xã hội nông thôn chúng tôi, tôn giáo là điều thiết yếu nhất của đời sống. Tôn giáo mang lại mọi sự an lạc cho tâm trí. Tôn giáo mà tôi gọi là niềm tin hay tín ngưỡng, là một phần của mọi phương diện đời sống hằng ngày của chúng tôi. Các tu sĩ, đại diện cho các đấng thiêng liêng trên thế gian, được mời tham dự mọi sự kiện lớn của đời sống như sinh ra đời, hôn nhân, di chuyển, bệnh tật, tang chế và tái sinh.

Những ký ức sớm nhất của tôi là về một xứ được thiên nhiên ban cho tính chất của một thiên đường sung túc với rừng cây, hồ nước, núi đồi và đất mầu mỡ. Đó là ký ức của tôi về ngôi làng Churkha ở xứ Tsongkha, nơi tôi ra đời. Churkha thuộc quyền cai trị của Tu viện Kumbum. Tsongkha là nơi sinh ra Tổ Sư Tống Khách Ba (Tsongkha), người khai sáng ra Tông Phái Gelugpa (Hoàng Mạo Giáo) của Phật Giáo Tây Tạng vào thế kỷ thứ mười bốn. Tôi là đứa con thứ hai trong nhà và là con gái thứ nhất. Có lẽ sự ra đời của tôi được coi là một sự không may mắn cho cha mẹ tôi vì nó báo trước một chuỗi dài những đứa con gái trong gia đình.

Tôi không bao giờ quên những ngày thơ ngây và tự do của mình ở Amdo (một trong hai tỉnh miền đông Tây Tạng). Tôi lớn lên với bảy em gái và ba anh em trai trong tình thương nồng ấm. Cha mẹ tôi là những nông dân hiền lành và giàu có. Tầm mắt và ý thức của tôi bắt đầu và chấm dứt với đời sống của ông cha tôi, những người làm nghề canh tác ruộng đất. Đất là phương tiện sống của chúng tôi. Khi số mạng thay đổi đời sống của tôi một cách bất ngờ và mau chóng như vậy, tôi chỉ là cô gái nông thôn.

Trong những năm đầu đời, tôi sống trong một gia đình lớn. Cha tôi có sáu anh em và tất cả họ đều sống trong cùng một nhà với vợ con của họ. Đây là một tập quán đặc thù của địa phương chúng tôi ở tỉnh Amdo. Con trai đưa vợ về sống ở nhà cha mẹ của mình, còn con gái thì về nhà chồng. Khi cha mẹ chỉ có con gái, họ sẽ "bắt rể" về sống với gia đình mình để duy trì dòng họ của gia tộc, nhưng đây không phải là tục lệ tiêu biểu.

Kiến trúc nhà cửa ở Amdo rất khác kiểu nhà ở miền trung Tây Tạng. Nhà ở đây có hình vuông, với một tầng hoặc hai tầng và chúng tôi cũng có một tầng dành cho những người giúp việc. Nhà có tường được làm bằng hai lớp ván, ở giữa là lớp cát nện. Nhà ở nông thôn có sân rộng, xung quanh có tường rào được làm bằng những tảng đá. Một gia đình lớn thường sống trong một cụm những ngôi nhà như vậy. Mỗi ngôi nhà có một phòng lớn chứa thực phẩm, gồm "tsampa" (bột lúa mạch rang, thực phẩm chính của người Tây Tạng), bột mì, bơ, thịt khô và dầu mè. Chuồng gia súc được xây ở bên ngoài ngôi nhà cho cừu, bò, ngựa, trâu yak, lừa, heo, và dzomo (là con của trâu yak và bò cái, con đực gọi là dzo).

Ở vùng này tôi từng thấy có một giống chó trông rất hung dữ, kể cả ở Lhasa. Chúng được nuôi để làm chó canh, người ta nói rằng những con chó này thường được đổi lấy ngựa. Khi được trao đổi như vậy, chúng phải đi tới những nơi xa, và bàn chân của chúng sẽ bị sưng. Người ta lấy lông trâu yak bọc những bàn chân đó lại để có thể đi tiếp.

Cha tôi tên là Tashi Dhondup, và mẹ tôi tên là Doma Yangzom. Ông bà nội tôi ở cùng với chúng tôi. Ở Amdo tất cả những người đàn bà lớn tuổi được gọi là "amala", hay mẹ. Để phân biệt các bà mẹ khác nhau. Chúng tôi gọi mẹ già là "tama" và mẹ trẻ là "gama", theo thứ tự trên dưới của họ. Để tỏ lòng hiếu thảo, những người con trưởng thành không để cho cha mẹ của mình phải làm việc, vì những người già được coi là đã làm công việc của họ trong thời tuổi trẻ.

Từ lúc tôi mới sinh ra, ông bà nội tôi rất thương tôi, dù tôi là con thứ hai, sau một người anh, vì các vị linh cảm tôi là một đứa trẻ đặc biệt và sẽ là một người lớn đặc biệt hơn nữa. Ông bà dành cho tôi nhiều tình cảm đến mức tôi cảm thấy mình được nuông chiều. Tôi biết ơn ông bà đã làm cho tuổi thơ của tôi vui sướng và đã không cho biết, dù chỉ tạm thời, rằng đời sống của một người đàn bà có thể khó khăn, khắc nghiệt, đầy thử thách và khổ đau.

Ông bà nội là mối liên hệ giữa tôi và thế giới của tôi. Tôi ngủ với các vị, ăn với các vị, được các vị dỗ dành và nựng nịu. Dường như các vị dành cho tôi sống trọn vẹn đời sống nhỏ bé của mình. Đây là điều khả hữu vì có mối liên hệ tự nhiên và thoải mái giữa ông bà và các cháu, không có những nguyên tắc cư xử cứng nhắc.

Ông nội của tôi là một người rất mạnh mẽ, quyền uy và hơi kiêu ngạo. Ở Amdo lúc đó ông nội là chúa tể, và ông cai trị với bàn tay sắt. Con người dữ dội này đã bồng tôi trên tay ngay lúc tôi chào đời và la lớn "Con bé này là Sonam Tsomo của tôi". Với câu tuyên bố này, tôi đã thuộc về sự trông coi của ông nội. Dù khó chịu với sự phô diễn quyền lực của ông nội, cha mẹ tôi cũng chỉ biết vâng lời ông.

Cha mẹ tôi chiều ý ông bà nội trong mọi việc quan trọng nhưng cũng chiều theo mọi ý muốn của tôi. Điều này thường có vẻ kỳ lạ, và chỉ về sau tôi mới hiểu sự tôn trọng ẩn ở bên dưới những mối liên hệ gia tộc của chúng tôi, và sự tôn trọng này có ở trong mọi hành vi của chúng tôi như thế nào. Mọi người trong gia tộc đều sợ và tôn kính ông bà, nhưng liên hệ giữa ông bà và các cháu lại có tính cách thân mật. Liên hệ giữa cha mẹ và con cái thì có liên hệ kiềm chế, khoảng cách và có phép tắc. Mối liên hệ của cha mẹ tôi đối với Ông bà nội là như vậy.

Với sự thú vị ngầm, tôi nhận thấy cha mẹ tôi nể sợ ông bà nội. Thí dụ, nếu ông bà nội ngồi trên phản, cha tôi không được ngồi bên cạnh ông nội, ít nhất cũng là trước mặt người khác. Vì sự hiếu kính, cha tôi phải đứng hay ngồi dưới sàn nhà. Nhưng tôi có thể leo lên phản ngồi cạnh ông nội và cảm thấy an toàn trong vòng tay của ông. Tôi cố ý khiêu khích cha tôi bằng cách này để cho thấy trong sự hiện diện của ông nội tôi là cô chủ nhỏ của tất cả và có thể làm bất cứ điều gì mình muốn.

Khi ông nội uống trà, phong tục không cho phép cha tôi cùng uống trà, trừ khi ông nội nói "Tashi, con ngồi xuống uống một chén". Ngay cả khi đó cha tôi cũng không bao giờ ngồi xuống một cái ghế mà chỉ ngồi xuống sàn nhà. Ghế là chỉ dành cho những người ngang hàng ngồi đối diện nhau.

Mỗi buổi tối, khi gia đình tụ họp trong bữa ăn, tôi lại nhích đến gần ông nội, một dấu hiệu bí mật giữa ông nội và tôi hàm ý chúng tôi sẽ có một cuộc vui sau bữa ăn. Tôi sẽ say mê nghe ông nội kể vô số truyện tích. Câu chuyện mà tôi thích nhất là chuyện ông nội tôi thắng tất cả mọi người khác trong việc chọn tên cho tôi. Ông nội là người có ảnh hưởng lớn nhất đối với tôi trong những năm tháng đầu đời đó. Ông nội biết cách vui hưởng mọi kinh nghiệm đời sống của mình.

Ngay cả khi còn khá nhỏ tôi đã suy nghĩ về sự kiện là con gái chứ không phải con trai. Chúng tôi sớm biết về vai trò và ý nguyện khác nhau của đàn ông, đàn bà và gia đình nào cũng thích con trai hơn con gái. Có khi người ta coi việc sinh ra con gái là điều xui xẻo. Tôi nghe nói một gia đình nghèo đã dìm chết đứa con gái sơ sinh của họ. Con gái trong nhà bị xem là một gánh nặng kinh tế trong xã hội nông nghiệp chúng tôi. Khi còn nhỏ, con gái chỉ biết ăn mà không đóng góp gì cho việc sản xuất nông phẩm. Đến tuổi vị thành niên, con gái lại phải được cha mẹ cho của hồi môn để đi về nhà chồng. Ngược lại, con trai làm cho sản lượng lương thực của gia đình gia tăng. Họ ở lại trong gia đình và con cháu của họ làm cho tài sản gia đình lớn hơn nữa.

Nhiều lần tôi hỏi ông nội là ông có thích con trai hơn con gái không? Tôi sẽ không chịu đựng nổi cảm giác bất mãn nếu ông nội nói thích con trai hơn, nhưng ông nhéo tai tôi và nói "Có phải là ông đã nói cháu là con gái ngay cả trước khi cháu ra đời hay không?".Lúc đó tôi cảm thấy thật vui sướng. Tôi muốn người khác thích tôi vì chính con người của tôi chứ không vì tôi thuộc về một giới tính có ích lợi thực tiễn cho họ.

Những năm đầu tiên đó có đủ những loại vui sướng mà tôi không bao giờ quên. Tôi được tự do cười lớn như là đang nghe kể chuyện khôi hài nhất thế giới, được tự do ngắm vẻ đẹp của cỏ cây, hoa lá, cảm nhận sự vui thích của ngựa và bò, được tự do mơ mộng tất cả những giấc mơ mà mình có thể gợi lên trong tâm trí.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/12/2015(Xem: 5164)
Thiên Đồng Thiền Tự (天童禅寺) nằm tại làng Thiên Đồng ở dưới chân núi Thái Bạch của Ngân huyện, thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang và được gọi là "Đông Nam Phật Quốc-東南佛國" hay “Ninh Ba Thiên Đồng Thiền Tự Pháp Vân Tuệ Nhật Thiên Phật Thiên Tăng- 寧波天童禪寺法雲慧日千佛千僧” vì là một trong năm Tòng lâm lớn nhất Trung Quốc. Ngôi Già lam Cổ Tự được kiến tạo vào đầu thế kỷ thứ IV, đời Tây Tấn năm Vĩnh Khang Nguyên (300), ban đầu chỉ là một Thảo am trên diện tích rất nhỏ nhưng theo thời gian đã lên đến 45 nghìn mét vuông, có đến khoảng 20 quần thể kiến trúc cổ như Thiên Vương điện, Đại Hùng Bảo điện, Thiên Phật các, Ngự Thư lâu, Hồi Quang lâu, Phản Minh lâu, Chung lâu, Pháp đường, Lục Thảo đường, Giới đường, La Hán đường . . . Điện đường, Lầu, Gác, Phòng liêu có đến 30 tòa, gồm 999 gian điện thất rất quy mô hùng vĩ. Hiện còn 730 gian, diện tích 7.640.000 mét vuông, diện tích xây dựng 28.800 mét vuông.
27/12/2015(Xem: 4821)
Hôm thứ Sáu, 25/12/2015, tại thành phố Nakhon Pathom, miền Trung Thái Lan đã diễn ra buổi lễ dựng Đài Tưởng niệm Sư tổ Phramongkolthepmuni, người sáng lập ra dòng thiền Dhammakaya (Pháp Thân) và cũng là Bổn sư của Ni trưởng Khun Yay, người sáng lập Trung tâm Dhammakaya (Pháp Thân Tự).
21/12/2015(Xem: 8340)
Mùa hạ năm Ất Mùi – 2015, khi đến dự hội nghị giảng sư của học viện, Thượng tọa tổng thư ký TW Giáo hội Phật Giáo Việt Nam giao cho chúng con nhiệm vụ liên lạc với ban tổ chức Diễn đàn Quốc Tế Sùng Thánh – 2015 để chuẩn bị cho phái đoàn của học viện tham dự diễn đàn. Từ hội nghị Hội đồng trị sự TW ở Sài Gòn, Thượng tọa tổng thư ký gọi điện về báo chốt danh sách thành viên phái đoàn để chính thức báo cho ban tổ chức diễn đàn làm thiệp thỉnh. Sau khi dự hội nghị Hội đồng trị sự trung ương trở về, Hòa thượng viện trưởng lại giao cho chúng con thêm một công việc lớn là xây dựng chương trình, liên lạc, bố trí sắp đặt để sau khi tham dự diễn đàn kết thúc, phái đoàn sẽ thực hiện chương trình tìm về tổ đình nơi Sơ tổ Thiền phái Tào Động Việt Nam đã cầu đạo và đắc pháp.
27/04/2015(Xem: 10236)
Tờ Thời Luận San Francisco (San Francisco Chronicle) một nhật báo lớn của Mỹ, ngày 17 tháng 9 năm 2008 có đăng một bài mang tựa: "Đạo Ki-tô đang phát triển nhanh chóng ở Mông Cổ, các nhà truyền giáo đã cải đạo cho hàng nghìn người trong khi những người Phật Giáo đang nơm nớp lo sợ là truyền thống văn hóa của mình sẽ bị mất đi" (Christianity growing fast in Mongolia, Missionaries convert thousands while Buddhists fear losing traditional culture), tác giả là Michael Khon một ký giả trong nhóm bình luận gia thời sự quốc tế trong ban biên tập của tờ báo này. Bài báo khá xưa, cách nay đã hơn sáu năm, thế nhưng cũng không hẳn là lỗi thời, bởi vì tình trạng trên đây chẳng những vẫn còn đang tiếp diễn ở Mông Cổ mà cả nhiều nơi khác trên thế giới. Bài báo cũng đã được một trang mạng Phật Giáo có tầm cỡ quốc tế với 9 thứ tiếng khác nhau là Buddachannel dịch sang tiếng Pháp và đăng tải ngày 6 tháng 2 năm 2009, với tựa ngắn hơn: "Phật Giáo Mông Cổ đang bị mất đà" (Le Bouddhisme Mongol en perte de
06/04/2015(Xem: 7275)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”[1] cho thấy tại Giao Châu lúc bấy giờ, đã là một lãnh địa hùng cứ ở phương Nam không thua kém gì nước Tàu tại phương Bắc. Sử gia Lê Mạnh Thát nhận định về điều này như sau trong bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam:
24/03/2015(Xem: 4832)
Tôi vẫn say mê với Phật Giáo Thái Lan từ những hình tượng lạ, bí ẩn trên các trang sách thiếu nhi – đúng ra, một phần là các hình khắc trên tường ở hai vách Chùa Xá Lợi (Sài Gòn). Đây là một ngôi chùa có ngọn tháp kiểu các chùa Bắc Tông Miền Trung, nơi tầng thứ nhì của tháp là thư viện, nơi đầy những kinh sách rất mực bí ẩn đối với bọn thiếu nhi chúng tôi lúc đó. Nhưng các vách tường chính điện là điêu khắc kiểu Phật Giáo Nam Tông, những hình tượng cổ cũng rất mực bí ẩn theo hướng chuyện cổ Jataka Tales.
22/03/2015(Xem: 7496)
Mirza Hussain mới 26 tuổi khi những kẻ chỉ huy khủng bố Taliban ấn vào tay ông khối thuốc nổ và bảo đem nó đặt vào các pho tượng Phật lớn nhất thế giới tại quê hương ông, tỉnh Bamiyan của Afghanistan. Các tượng cổ xưa được khắc sâu vào núi, từng là những pho tượng Phật cao nhất thế giới, đã bị phá hủy trong loạt hành động điên rồ của phiến quân Hồi giáo cực đoan năm 2001. Hành động đó đã tạo tiền lệ nguy hiểm cho những kẻ thuộc Nhà nước Hồi giáo tự xưng tiến hành những cuộc đập phá các di sản kiến trúc và tôn giáo thời gian gần đây.
03/03/2015(Xem: 8791)
Với mục tiêu giúp mọi người hướng đến đời sống tâm linh, tổ chức Dhammakaya đã thiết lập nhiều hoạt động nhằm tác động đến đời sống đạo đức tâm linh xã hội hiện đại, nâng cao phẩm giá của con người, hướng đến một nền hòa bình, hòa hợp cho thế giới mà mọi người chúng ta đang tìm cầu. Thời gian gần đây, hoạt động của Dhammakaya đã thu hút người mộ đạo từ Thái lan đến khắp nơi trên thế giới.Trung tâm luôn duy trì những hoạt động này, vì nó đã đem lại thiết thực cho con người tăng trưởng nhân tâm và phát triển xã hội.
10/02/2015(Xem: 6249)
Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới đã được thành lập 65 năm, Đại hội lần thứ 17 được tổ chức từ 16 đến 18 tháng 10 năm 2014 tại thành phố Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Nói đến lịch sử thành lập Hội, không thể không nhắc đến người đề xướng ý tưởng thành lập đầu tiên là Ngài Thái Hư Đại Sư và người đệ tử lớn của Ngài là Pháp Sư Pháp Phảng. Bài viết này trình bày công đức của Pháp Sư Pháp Phản trong việc thành lập Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới.
07/11/2014(Xem: 32102)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]