Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết 1: Bối cảnh thời đại đức Thích Tôn

05/01/201202:25(Xem: 5776)
Tiết 1: Bối cảnh thời đại đức Thích Tôn

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trídịch

---o0o---

CHƯƠNG II. NGUỒN GỐCTHÍCH CA THẾ TÔN

TIẾT I. BỐI CẢNH THỜI ĐẠI THÍCH TÔN

- Áo Nghĩa Thư với Phật Giáo

Ở tiết ba của chương một có đề cập đến sự xuất hiện của Áo Nghĩa Thư là do xu thế theo tư trào của thời đại. Do đó, mà nội dung Áo Nghĩa Thư như mũi nhọn đâm ngược vào truyền thống. Đại loại mà nói, thì Phật Giáo cũng có thể gọi là đã từng chịu sự hun đúc bởi Áo Nghĩa Thư. Chẳng hạn như khi nói về “nghiệp”. Trong cổ Áo Nghĩa Thư, nghiệp thuộc mật giáo nên không thể công khai. Nhưng đến thời đức Phật thì nghiệp trở thành tư tưởng được các giáo phái thừa nhận; hoặc như thuyết “luân hồi” cũng đã manh nha từ thời đại Phạn thư, nhưng về sau mới hoàn chỉnh và được thừa nhận. Vào thời đại ban đầu của Áo Nghĩa Thư, thì thuyết “giải thoát” mới là mục đích cuối cùng. Như thế đủ để suy định rằng tuy Áo Nghĩa Thư là mật giáo thuộc về nội bộ của Bà La Môn giáo ở đây là nội bộ Ấn Độ nên có thể đức Phật chưa đích thân thâm hiểu về nó, nhưng không thể nói vì lý do mà đức Phật chưa từng gián tiếp chịu ảnh hưởng tư tưởng tự do của Áo Nghĩa Thư, dù rằng thuyết về nghiệp, luân hồi, giải thoát là do chính đức Phật thuyết giảng, cho dù nội dung không giống với Áo Nghĩa Thư. Nhưng không thể vì thế mà nói rằng đức Phật chẳng chút tơ hào quan hệ với Áo Nghĩa Thư.

- Điều gì tạo nên tư trào thời đại?

Nói đến tư trào thời đại đương thời, trước tiên nên tìm hiểu rõ sự biến thiên của xã hội và dân tộc Ấn Độ. Người Aryan lấy địa phương Câu La làm trung tâm để kiến lập nền văn hóa tư tưởng của Bà La Môn giáo. Giống các nước như: Tú La Sắc Na (Suracena), đều lấy nơi này làm trung tâm.

Như vậy, đến thời này pháp điển của Bà La Môn một nửa được coi là của người Aryan, nửa còn lại là các chủng tộc hạ đẳng, còn man khai. Lại nữa, tại lưu vực sông Hằng, đặc biệt là nước Ma Kiệt Đà, nơi sản sinh nền văn hóa tư tưởng mới. Theo “Bao Đạt Da Na Pháp Điển” (Bandhayàna Dharma Sùtra), thì người Ma Kiệt Đà dường như có sự pha trộn giữa giai cấp Phệ Xá với giai cấp Thủ Đà La, mà tổ tiên họ là người Aryan thuộc chủng tánh Vệ Xá - Họ cũng tranh dành phần cư trú tại địa phương Câu La của người Aryan. Họ là những người Aryan đến Ấn Độ sớm hơn. Trải qua thời gian lâu dài, họ thông hôn với tộc người hạ tiện Dravidian, và cũng từ đó họ trở thành một chủng tộc mới và độc lập.

Chủng tộc độc lập này lấy nước Ma Kiệt Đà làm trung tâm. Đến thời đại đức Phật, Ấn Độ ước có mười sáu nước lớn. Kinh Trung A Hàm quyển năm mươi lăm, kinh 202 - Trì Trai kinh (1) chép là, trong số các nước lớn, như nước Ma Kiệt Đà lấy thành Vương Xá làm kinh đô, nước Kiều Tát La lấy thành Xá Vệ làm kinh đô, nước Ta Di lấy Kiều Thường Di làm kinh đô, nước Bạt Kỳ lấy Tỳ Xá Ly làm kinh đô v.v… các nước vừa nêu là những nước cường thịnh nên được lưu danh.

Tại các “tân bang quốc” này, tuy vẫn chịu ảnh hưởng văn hóa truyền thống Bà La Môn, nhưng là những bang quốc trổi dậy với nền văn hóa tự do. Nền văn hóa tự do này nhận được sự bảo hộ của các bậc vương giả. Do đó, đây là khu vực tuy cũng có quan niệm về bốn chủng tánh, nhưng lại lấy giai cấp Sát Đế Lợi đặt lên trên giai cấp Bà La Môn. Các bậc vương giả bảo hộ tư trào tự do tư tưởng không hẳn là họ xuất thân từ huyết thống của giai cấp Sát Đế Lợi, nhưng họ lại cư xử ở cương vị chủng tánh Sát Đế Lợi là để nhằm bảo lãnh bốn chủng tánh. Nhân đó, phàm hễ là tư tưởng mới thì liền được trọng thị, trong khi đó quan niệm “Bà La Môn chí thượng” lại phải chịu sự khảo nghiệm hết sức gay gắt. Đó là do tư trào phản Vệ Đà được các vương gia che chở.

- Phản Vệ Đà của Sa Môn đoàn.

Như đã giới thiệu danh xưng của sáu phái triết học; trong sáu phái, không phái nào là không thừa nhận giá trị Vệ Đà, vì thế mà truyền thống học phái rất thịnh hành. Nhưng truyền thống đó bị phái cách tân của Sa môn đoàn phủ nhận.

Thực sự mà nói, thì thời gian trước đức Phật một trăm năm, và sau đức Phật hai trăm năm, tư tưởng giới ở Ấn Độ là cực kỳ hỗn tạp. Qui nạp lại mà nói, đại khái có thể phân thành bốn loại: 1. Bà La Môn giáo chính thống - 2. Tín ngưỡng theo tập tục, hệ tín ngưỡng này lấy Sử thi làm tư tưởng trung tâm, đó là Phạm thiên, Duy Tu Nô, và Thấp Bà là ba vị thần chính của Bà La Môn giáo được thông tục hóa - 3. Triết học, chẳng hạn như đại bộ phận của sáu phái triết học đã thành lập - 4. Phản Vệ Đà của Sa môn đoàn.

Các phái phản Vệ Đà đều có chủ nghĩa “đặc chủng” và có tổ chức giáo đoàn. Các giáo đoàn dưa ra kiến giải khu biệt với Bà La Môn, và họ mệnh danh là Sa Môn (S’ramana - cần tức). Do đó, mà vào thời đức Phật, có ý kiến rằng mỗi khi giới thiệu các phái, người ta gọi hoặc là Sa Môn hoặc Bà La Môn, ngược lại các phái cũng gọi đức Phật là Đại Sa Môn, hoặc có khi thêm cả họ của đức Phật vào, và gọi là Sa Môn Cù Đàm.

Đương thời tại Ấn Độ có rất nhiều đoàn Sa Môn; kinh Phật chép có chín mươi sáu thứ ngoại đạo, trong đó có nhiều ngoại đạo cũng xưng là Sa Môn; như lục sư ngoại đạo chẳng hạn.

- Lục Sư Ngọai Đạo

Lục sư ngoại đạo được nói đến rất nhiều trong các kinh, luật tiểu thừa. Xin lấy kinh thứ hai mươi bảy - kinh Sa Môn Quả - trong kinh Trường A Hàm để giới thiệu về tên gọi của Lục sư ngoại đạo;

1. Bất Lan Ca Diếp (Pùrana - Kàssapa):

Nhóm ngoại đạo này hoài nghi về Luân lý, phủ định cả nghiệp thiện nghiệp ác, cho rằng thiện ác nên căn cứ vào sự tương ứng. Do đó, họ đề xướng Vô tác dụng Luận.

2. Mạc Già Lê Cù Xá Lợi (Makkali Gosàla):

Đó là tên vị tổ của tà mệnh ngoại đạo. Nhóm ngoại đạo này đề xướng “Vô nhân nhi hữu luận” (Có là có chứ không có nguyên nhân). Nhóm này là một phái của Kỳ Na giáo. Ngoài Kỳ Na giáo, đây là nhóm ngoại đạo mạnh nhất so với năm nhóm còn lại.

3. A Kỳ Đa Si Khâm Bà La (Ajita Kes’akambala):

Nhóm này phủ định thuyết linh hồn, và đề xướng “Duy vật luận”. Chủ trương lấy khoái lạc làm mục đích, bài xích tất cả mọi quan niệm nghiêm túc về luân lý. Nên được gọi là Thuận thế ngoại đạo.

4. Ba Phù Đà Ca Chiên Na (Pakudha Kacàyana):

Nhóm này chủ trương “Tâm vật vĩnh bất tiêu diệt”, và đề xướng “Thế gian thường tồn luận”.

5. Tán Nhã Di Tì La Lê Phí (Sãnjaya Belathiputta):

Là phái ngụy biện, hoặc còn có tên là Bộ Nang Luận Giả; ngài Xá Lợi Phất (Sàriputta) và ngài Mục Kiền Liên (Mahàmaudgalyàyana). Cả hai đều xuất thân từ phái này, sau mới qui y Phật.

6. Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử (Nigantha Nataputta):

Thỉ tổ của Kỳ Na giáo là Ma Ha Tỳ Lô (Mahà - Vira), ông ra đời trước đức Phật, và cũng xuất thân là vị vương tử. Phái này dùng “mệnh” (Jiva) và “phi mệnh” (Ajiva) tạo thành nhị nguyên luận để thuyết minh tất cả mọi vấn đề. Do đó, họ đề xướng “Vô thần luận”, phủ định quan niệm Thượng đế là đấng tạo vật. Điểm đặc sắc của phái này là giữ giới bất sát sinh rất nghiêm mật, và tu khổ hạnh một cách cực đoan. Ấn Độ là đất nước rộng truyền hạnh tu khổ hạnh cấm dục. Do đó, khi Phật Giáo bị chìm vào tả đạo của Mật giáo, và tiến hành việc ”nam nữ đại lạc” nên sau đó bị diệt vong. Trong khi Kỳ Na giáo trải qua hơn hai nghìn năm trăm năm và hiện nay vẫn còn lưu hành tại Ấn Độ.

Cứ theo kinh Phật mà xét, thì Lục sư ngoại đạo có thể nói là không có gì tốt lành. Thực tế khi khảo sát tư tưởng của họ, cố nhiên họ không theo kịp tính hợp lý của Phật Giáo, và cũng chưa kết tập kinh điển của họ như Phật Giáo đã kết tập. Điều đó phản ánh được rằng thời ấy giữa Phật Giáo và Lục sư ngoại đạo có xung đột nhau như tường vách khó nhìn thấy nhau. Người Phật tử có chánh tín không thể dung chấp ý thức hương quyện mang tính hàng hai.

- Sáu Mươi Hai Kiến.

Tư tưởng của hàng ngoại đạo đương thời, tổng quát là gồm các đoàn Sa Môn, và học thuyết Bà La Môn. Chỉnh lý và phân loại, có cả thảy sáu mươi hai kiến giải. Xin đọc kinh Trường A Hàm, quyển mười bốn, kinh thứ hai mươi mốt “Phạm Động Kinh”(2). Trong kinh có xâu kết sáu mươi hai kiến giải, và chia thành hai thuyết với mười sáu loại:

I. NÓI VỀ ĐỜI QUÁ KHỨ, HOẶC CÒN GỌI LÀ “BẢN KIẾP BẢN KIẾN”. GỒM NĂM LOẠI VỚI MƯỜI KIẾN.

1. Thế gian thường trụ luận, thường kiến luận, có bốn thứ.

2. Thế gian thường bán vô thường luận, có bốn thứ.

3. Thế gian hữu biên vô biên luận, có bốn thứ.

4. Dị vấn dị đáp luận, có bốn thứ.

5. Vô nhân nhi hữu luận, tức Vô nhân luận, có 2 thứ.

II. NÓI VỀ ĐỜI VỊ LAI, HOẶC CÒN GỌI LÀ “VỊ THẾ VỊ KIẾP” CÓ NĂM LOẠI VÀ BỐN MƯƠI KIẾN.

1. Thế gian hữu tưởng luận, có mười sáu kiến giải.

2. Thế gian vô tưởng luận, có tám kiến giải.

3. Thế gian phi hữu tướng phi vô tướng luận, có tám kiến giải.

4. Chúng sinh đoạn diệt vô dư luận, tức Đoạn kiến luận, có bảy kiến giải.

5. Hiện pháp Niết bàn luận, tức không luận là ở trạng thái nào, chỉ nhằm vào đời hiện tại, lấy đó làm cảnh giới tối cao. Có năm kiến giải.

Thời ấy tư tưởng của Bà La Môn thì quá cố hữu khiến người đời phải phản đối. Tư tưởng của các đoàn Sa Môn tuy mới, như quá cấp tiến, khiến người ta có xu hướng thiên kiến một cách cực đoan. Với nhân tâm thế đạo, thì thái quá cũng như bất cập, cả hai đều không nên. Do vậy mới xuất hiện sự tích đấng Thích Tôn ứng hóa ở cõi nhân gian. Đặc biệt là đức Phật với trí tuệ vô hạn, và bi tâm vô lượng đã khởi xướng chánh giáo trung đạo một cách vững chắc. Lấy đó bài trừ mọi thiên kiến của các phái ngoại đạo. Do đó, trong thời gian dài ngoại đạo bị tổn hại (dẹp tan), và Phật pháp đã đem đến cho nhân loại khí tượng mới, như ánh sáng chiếu xa vạn dặm!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2021(Xem: 3793)
BBC News đã vinh danh nhà hoạt động xã hội Phật giáo, nữ Cư sĩ Phật tử Manjula Pradeep, một nhà hoạt động Nhân quyền, hoạt động vì quyền của các cộng đồng bị thiệt thòi nói riêng là người Dalits và Phụ nữ trong gần ba thập kỷ ở Ấn Độ.
10/12/2021(Xem: 3139)
Cuộc họp báo khẩn để thành lập Ủy ban Cứu nguy tình trạng Chính phủ Công giáo Roma thiên vị tôn giáo, xuyên tạc Phật giáo được tổ chức tại Văn phòng Trung ương Thiền phái Tào Khê Phật giáo Hàn Quốc, thủ đô Seoul vào lúc 16 giờ ngày 2/12/2021. Ủy ban Hành động liên nghị đã quyết định với một phản ứng kịp thời, dứt khoác đối với sự cố liên tiếp bởi thành kiến, thiên vị tôn giáo của chính quyền Công giáo Roma.
08/12/2021(Xem: 2511)
Vào cuối tháng 6 vừa qua, Hiệp hội Quốc tế Phật Quang Sơn phối hợp với Phật Quang Sơn Bồ Đào Nha đồng tổ chức trực tuyến "Diễn đàn Triển vọng Kinh tế Toàn cầu hậu kỳ Đại dịch" (後疫情時代, 世界經濟展望論壇). Hội nghị đã mời các nhà tư vấn gốc Hoa kiều tại Bồ Đào Nha, các nhà quản trị tài chính xuyên quốc gia, các doanh nghiệp kinh doanh, công nghệ truyền thông, các nhà lãnh đạo thuộc các lĩnh vực khác đồng hài hòa bên nhau để thảo luận những vấn đề cốt lõi cấp bách nhất mà cả nhân loại thế giới đang phải đối mặt.
06/12/2021(Xem: 2781)
Hiệp hội Sinh viên Đại học và Phật tử Hàn Quốc (대불련, K.B.U.F) lên án "một nguyên nhân khác gây ra xung đột dưới danh nghĩa an ủi người dân". Trong khi cộng đồng Phật giáo Hàn Quốc tiếp tục chỉ trích chiến dịch chấn hưng nền kinh tế do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc (문화체육관광부) dẫn đầu, những sinh Phật tử tại các trường Đại học đã bắt đầu nêu lên những vấn đề nóng bỏng của giới trẻ hiện nay.
01/12/2021(Xem: 5153)
Vào tối hôm thứ Năm, ngày 25 tháng 11 vừa qua, các chi hội thứ nhất, nhì, ba Hiệp hội Quốc tế Phật Quang Sơn Toronto, Canada đồng phối hợp tổ chức một nhóm tọa đàm "Đối thoại về Tâm" (與心對話). Pháp sư Dương Phái Hân (楊沛欣法師), người tổng triệu tập Tổng hội đọc sách Phật giáo Nhân gian Toronto, dùng Pháp ngữ Trí tuệ của Đại sư Tinh Vân, Tông trưởng khai sơn Phật Quang Sơn Đài Loan, các hội viên đồng nghiên cứu thảo luận "Hướng Tuyệt diệu Sống Tự do Tự tại" (自由自在的生活妙方).
01/12/2021(Xem: 2624)
Những lời tri ân và chia buồn sâu sắc, sau sự từ giã trần gian của Ngài Hoàng thân Campuchia Norodom Ranariddh là một cựu Thủ tướng chính phủ và là anh em cùng cha khác mẹ với Đức Quốc vương Norodom Sihamoni.
30/11/2021(Xem: 2470)
Tại Tịnh thất của Ngài, Dharamsala, Bắc Ấn Độ vào ngày 24 tháng 11 vừa qua, đáp lời thỉnh cầu của Palas Athena, một tổ chức phi chính phủ Brazil, Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ pháp thoại trực tuyến với chủ đề "Giáo dục Tâm Trí Lực vào thiên niên kỷ mới" (新千禧年的心智教育), sau đó là phần vấn đáp.
28/11/2021(Xem: 3305)
Pho tượng Phật Dhammakaya Thep Mongkol khổng lồ cao 69m được tạo dựng ngay trung tâm quận Thon Buri, thủ đô Bangkok, Thái Lan sắp được hoàn thành, thu hút sự chú ý của cộng đồng Phật tử cả trong và ngoài xứ sở chùa Vàng. Nhưng việc Khánh thành có thể bị trì hoãn cho đến năm 2022 do ảnh hưởng đại dịch Covid-19.
27/11/2021(Xem: 2757)
Ngày 24 tháng 11 vừa qua, Cao ủy Pakistan tại Malaysia bà Anna Barlow đã đến ngôi già lam Phật Quang Sơn Đông Thiền Tự, Kuala Langat, Selangor Darul Ehsan, Malaysia, và được sự tiếp đón nồng hậu bởi Trụ trì Pháp sư Giác Thành, Tổng Giáo khu Phật Quang Sơn Singapore, Malaysia, Ấn Độ; hai bên rất hoan hỷ trong trao đổi về các vấn đề tôn giáo và văn hóa, nhất trí rằng chỉ thông qua đối thoại giữa các tôn giáo, để tạo hòa bình, xã hội hài hòa.
24/11/2021(Xem: 4423)
Tôi nhớ lại có lần Nữ cư sĩ Clair Brown, Giáo sư Tiến sĩ từ Trường đại học California – Berkeley (UC Berkeley) đã đề cập với tôi về một thứ gọi là “Kinh tế học đạo Phật” (Buddhist economics).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]