Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết 2: Tôn giáo ở Ấn Độ

05/01/201202:25(Xem: 4958)
Tiết 2: Tôn giáo ở Ấn Độ

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trídịch

---o0o---

CHƯƠNG I. NGUỒN GỐC

TIẾT II: TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ

Nhìn xuyên suốt dòng lịch sử của đất nước Ấn Độ, người ta nhận thấy Ấn Độ là nơi phát xuất tổ chức mọi mô hình tôn giáo của thế giới. Cũng giống như Hy Lạp nơi mà từ thời xa xưa cho đến thời cận kim, luôn phát sinh những tư tưởng triết học trọng yếu trong nền triết học tây phương. Cũng thế, những tôn giáo và tư tưởng triết học của Ấn Độ từ trước giờ vẫn bảo trì tính cách “nhất thể”, và chưa bao giờ tách khỏi mối quan hệ nhất thể để tiến tới. Nền triết học tây phương phát sinh từ Hy Lạp và đạo Cơ Đốc phát sinh từ Do Thái, từ thời cổ đại hai ảnh hưởng trên thường xung đột nhau cho mãi đến thời trung cổ cả hai mới chịu điều hòa để rồi vào thời cận đại lại phân ly; điều này hoàn toàn khác với nền triết học và tôn giáo của Ấn Độ. (Phần tự luận của “Ấn Độ Triết Học và Tôn giáo Sử” do Cao Nam Thuận - người Thái Lan và Mộc Thôn Thái Hiền người Nhật bản cùng hiệp soạn).

- Tứ Vệ Đà.

Ấn Độ không những là nước đa sắc tộc, mà còn là một nước đa tôn giáo. Nếu lấy tôn giáo của người Aryan làm chính thống, thì Vệ Đà là nhất quán cả về tôn giáo lẫn tư tưởng. Bà La Môn giáo mà trong kinh Phật thường đề cập đến ngày nay gọi là Ấn Độ giáo, cả hai đều từ Vệ Đà mà ra cả.

Đại cương về nội dung tứ Vệ Đà:

1. Lê Cu Vệ Đà: gồm một nghìn không trăm mười bảy bài Thánh ca dài ngắn khác nhau, được dùng trong việc tế tự, chỉ chừng một một phần mười là có liên hệ đến thế tục, chín phần còn lại là liên hệ đến tôn giáo; trọng yếu nhất là bài “Lễ Kính Thái Dương Thần Ca”, bài Thánh ca này được các tăng lữ Bà La Môn sáng chiều đọc tụng trong các lễ cầu nguyện. Thời đại thành lập nội dung Lê Cu Vệ Đà là bất nhất. Chậm lắm nó cũng được biên tập trước công nguyên một nghìn năm. Đây là bộ Vệ Đà duy nhất được dùng làm tư liệu để khảo sát về trạng thái tối cổ của giống người Aryan.

2. Sa Ma Vệ Đà: gồm một nghìn năm trăm bốn mươi chín bài Thánh ca được các tăng lữ Bà La Môn xương lên trong lễ “tửu tế”.

3. Dạ Nhu Vệ Đà: về đại thể thì Dạ Nhu Vệ Đà tương đồng với Sa Ma Vệ Đà, ấy là dạy cách thực hành tế lễ phải như thế nào, nhưng bất đồng ở chỗ là trong đại bộ phận của Lê Cu Vệ Đà thì Dạ Nhu Vệ Đà chưa xuất hiện lời tế thần sáng tạo độc nhất và duy nhất.

4. A Thát Bà Vệ Đà: về nội dung chia làm hai mươi quyển, gồm bảy trăm ba mươi mốt bài Thánh ca. A Thát Bà Vệ Đà nói về mối quan hệ giữa người Aryan với cư dân gốc tại bản địa Ấn Độ sau khi hai bên có sự tiếp xúc qua lại và chịu sự hấp thụ nhiều yếu tố tín ngưỡng của nhau mà hình thành; do đó A Thát Bà Vệ Đà phần nhiều là thần chú và phép khống chế quỉ thần. Chỉ một số ít bài thơ được dùng để ca tụng Thượng đế; vì vậy A Thát Bà Vệ Đà phần lớn mang sắc thái mê tín.

- Bốn giai cấp: Ba đại cương lĩnh của Bà La Môn giáo. Một là chủ nghĩa thiên khải Vệ Đà, hai là chủ nghĩa vạn năng tế tự, ba là chủ nghĩa Bà La Môn chí thượng.

Ba thứ chủ nghĩa trên được coi là nét đặc sắc của thần giáo.

Vệ Đà là do sự khải thị của Phạm thiên thượng đế, vì vậy nên Thành thánh là vô tượng; cứ theo chỉ đạo của Vệ Đà mà thực hành tế tự thì không có gì là “bất năng” cả. Khi tế tự thì cần phải đến tăng lữ Bà La Môn, vì thế nên Bà La Môn là giai cấp chí thượng.

Thực thì chế độ giai cấp chỉ xuất hiện khi tộc người Aryan đã xâm nhập Ấn Độ, và do thi ca Vệ Đà cứ tăng dần nên nghi thức tế tự cũng theo đó tăng lên mới sản sinh ra chức Tư tế chuyên lo việc tế tự. Tư tế có quyền lợi của tư tế cho nên phải bảo vệ lợi ích của giới tính. Từ đó đưa đến chủ trương tế tự phải thế tập (cha truyền con nối), hoặc người cùng giai cấp mới được kế thừa. Nhân đó, giai cấp Tế tự cậy vào quyền uy của Thần thánh mà đề ra bốn giai cấp.

1. Giai cấp Bà La Môn:

Tôn giáo sư thuộc giai cấp Tế ti, giai cấp Tế ti trải qua nhiều đời, con cháu họ càng lúc càng đông nhân đấy mới hình thành một đại chủng tánh. Người của chủng tánh này một khi được sinh ra là liền trở thành tăng lữ. Lúc tuổi già vào rừng sống và sinh hoạt như người xuất gia (giai cấp Bà La Môn tự chia đời con người làm bốn giai đoạn, một là giai đoạn nhi đồng giáo dưỡng kỳ, hai là giai đoạn kết hôn và sinh hoạt gia đình, ba là giai đoạn vào rừng sinh sống, và bốn là giai đoạn trốn đời ẩn tu).

2. Giai cấp Sát Đế Lợi:

Là giai cấp vương giả thuộc tộc người võ sĩ. Đây là giai cấp thống trị về mặt đối nội. Và khống chế về mặt đối ngoại. Nhân đấy mà xuất hiện giai cấp “Võ nhân chủng tánh”. Đây là giai cấp lấy võ nghệ làm thế tập mà hình thành nên chức vụ chuyên về chiến sĩ. Chủng tánh võ nhân phải nhờ đến sự tế tự của giai cấp Bà La Môn để được Thần hộ, vì vậy, họ ở vào giai cấp thứ hai.

3. Giái cấp Phệ Xá:

Ngoài các Tế ti và Võ sĩ, người Aryan còn có hạng người theo đuổi các nghề như: thương mại, nông nghiệp và công nghệ, từ đó hình thành nên giai cấp thứ ba Phệ Xá.

4. Giai cấp Thủ Đà La:

Đây là giống người Đạt La Duy Gia (Dravidian); tộc người này xâm nhập Ấn Độ từ rất sớm và họ là tộc người đầu tiên bị chinh phục bởi tộc người Aryan, và họ bị biến thành giai cấp nô lệ tiện dân.

Trong bốn giai cấp trên, chỉ có ba giai cấp là Bà La Môn, Sát Đế Lợi và Phệ Xá là được tụng niệm Vệ Đà, được quyền tế tự. Sau khi chết cả ba giai cấp này sẽ được tái sinh lại cõi nhân thế. Do đó, cả ba được gọi là “tái sinh tộc”; còn chủng tộc Thủ Đà La do không phải là giống người Aryan, nên họ không những không được quyền tụng niệm Vệ Đà và tế tự, mà họ cũng không có hy vọng được tái sinh trở lại ở đời sau. Do đó, giai cấp Thủ Đà La còn gọi là “nhất sinh tộc” (tộc người chỉ được sinh một lần). Khi tộc người Bà La Môn chết thì chỉ cần bái Thần, tụng kinh là liền được trở về với Phạm thiên - tức bản thể vũ trụ, và gọi là “đốn ngộ pháp”. Trong khi tộc người Sát Đế Lợi và Phệ Xá thì ngoài việc tế tự và tụng kinh, họ cần phải khổ luyện tu thiền mới được sinh về với Phạm Thiên (sau khi chết) và gọi đó là “tiệm chứng pháp”.

- Tín ngưỡng Thần.

Không cần phải nói, ai cũng biết tín ngưỡng thần của người Aryan đều căn cứ vào kinh Vệ Đà. Lê Câu Vệ Đà chia vũ trụ thành ba giới là: thiên - không - địa, mỗi giới có mười một vị thần, cộng có ba mươi ba thần. Kỳ thực, những thần được cúng tế là rất nhiều, nhìn giống như đa thần giáo. Nhưng thường thì họ chỉ nhắm vào vị thần chủ yếu để tán tụng, và luôn luôn dùng những câu chữ rốt ráo nhất để hình dung; cho nên vị Thần chủ yếu không nhất thiết là vị nào, mà tùy vào địa vị của Thần được nhắm đến. Đây là lý do khiến có người gọi Bà La Môn giáo là “Giáo hoán Thần giáo” (Kathentheism), bằng như dựa vào trạng thái chủ quan của người tin, thì hiển nhiên tín ngưỡng của người Aryan là nhất thần giáo, và tôn giáo của họ được coi là “đơn nhất thần giáo” (Henotheism) tức tôn giáo chỉ sùng bái một vị thần trong số những vị thần.

Trên bình diện thông thường, người Aryan cùng bái năm sức mạnh thiên nhiên mang tính Thần cách, đó là Thái dương thần, Thiên thần, vũ Thần, Không khí thần và Hỏa thần. Đặc biệt người Aryan rất sùng kính thần Ba Thê Na (Yaruna), và thần lôi vũ là Nhân Đà La (Indra). Do vì họ đặc biệt sùng kính thần Indra, nên người ta lấy tên vị thần này đạt tên nước là Ấn Độ - India, Indian.

Thần của Vệ Đà trước tiên là Thiên thần, Không thần rồi dần dà tiến đến Địa thần. Nguyên Thỉ của thần trong Vệ Đà là thần Đặt Vưu Tư (Dyaus), thần Dyaus trong Vệ Đà vời thần Zeus của Hy Lạp và thần Jupiter của La mã có cùng ngữ căn dyu - Phất quang mà thành tên thần. Nghĩa là do sáng tỏ quang minh mà hóa thành Thần. Thần Yaruna xuất hiện sớm hơn thần Indra, thần Indra là sức mạnh của không giới, trong khi thần A Kỳ Ni (Agni) là vị thần chủ yếu của Địa giới.

Bất luận là gì, tuy thần trong Vệ Đà có nhiều nhưng mỗi khi lễ bái các Thần điều chắc chắn là họ không thể quên vị Thần chủ tể của vũ trụ. Sở dĩ vậy, nên trong Lê Câu Vệ Đà nói: “tuy nhiên, người đời có gọi vị thần của họ là Indra, Mật Tư La (Mỉta là thần biểu trưng ân huệ của thái dương) hay thần Varuna đi nữa. Kỳ thực cũng chỉ có một thần, chẳng qua là do các thi nhân dùng nhiều danh xưng khác nhau để gọi đó thôi”. (tư liệu vừa nêu được trích từ cuốn Ấn Độ Triết Học Tôn Giáo Sử, do Cao Nam Thuận - người Thái Lan và Mộc Thôn Thái Hiền - người Nhật Bản cùng trước tác, và Ấn Độ Thông Sử của Chu Tường Quang).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2022(Xem: 2101)
Nhà tâm lý học và triết gia người Đức Karl Jaspers (1883-1969) nhận định rằng, một số hình thức phát triển tâm linh quy mô toàn cầu, đã xảy ra vào thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 2 trước kỷ nguyên Tây lịch ở Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tư và Trung Đông Địa Trung Hải, một sự chuyển dịch từ đa thần giáo ma thuật sang tôn giáo nhiều hơn như ngày nay chúng ta nghĩ về nó. Sự thay đổi kiến tạo ban đầu trong ma thuật hiện đại của thời kỳ Phục hưng, Cải cách và Khai sáng đã ưu tiên nhân loại đi trước Đức Chúa và Khoa học hơn tất cả. Những năm hỗn loạn của thế kỷ 21 mới này có thể tạo ra một cơn địa chấn khác như thế.Một số điểm cần quan sát có thể bao gồm:* Hầu hết tất cả tôn giáo lớn điều yêu chuộng hòa bình trên tinh thần Từ bi, Bác ái, Hòa hợp và tính toàn cầu.* Tất cả các tôn giáo đều đều chứa đựng những lời khuyến giục và cung cấp tính hợp pháp nội bộ cho sự nghiêm khắc khi nhiếp phục những phần tử kiêu căng và ngông cuồng. * Kinh nghiệm hiện đại đưa ra bằng chứng kết luận hậu Hòa ước Westphalia
03/04/2022(Xem: 2405)
Shedrub Ling, tu viện Phật giáo duy nhất ở vùng liên bang Ural, một trong 8 vùng liên bang của Nga, nằm dọc biên giới giữa các khu vực châu Âu và châu Á, đã bị phá hủy vào cuối tháng 03 vừa qua để nhường chỗ cho các lợi ích khai thác thương mại. Việc cơ sở tự viện Phật giáo bị phá hủy trong vùng hẻo lánh và đẹp như tranh vẽ là một tổn thất lớn đối với người Phật tử trong vùng. Shedrub Ling, tu viện Phật giáo duy nhất ở núi Kachkanar, thuộc khu vực vùng liên bang Ural, Nga. Tu viện Shedrub Ling được thành lập vào năm 1996, do Lạt ma Tendzin Dokchit, tục danh Mikhail Vasilyevich Sannikov khai sơn.
02/04/2022(Xem: 2049)
Nghiên cứu Công nghệ Trí tuệ nhân tạo (AI) từ quan điểm Phật giáo dẫn đến một chuỗi điều tra mới thú vị. Có thể nói, công nghệ tin học tiêu biểu đỉnh cao nhận thức của nhân loại, nơi tụ hội các công nghệ khoa học tiên tiến trong triết học, logic, toán học, lập trình và kỹ thuật để phát triển những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Công trình này không chỉ tiêu biểu cho một ngành khoa học theo đúng nghĩa của nó, mà còn giúp tạo ra nền tảng và cơ sở hạ tầng quan trọng cần thiết cho sự tiến bộ trong các lĩnh vực trí thức khác của nhân loại - bao gồm cả khoa học vật lý và vật liệu.
01/04/2022(Xem: 2177)
Tổng thống Indonesia Joko Widodo cho biết trong một phát biểu sau khi quan sát: "Trong hai năm qua, chúng tôi thực sự đã thực hiện những cải thiện lớn đối với môi trường, cảnh quan Thánh địa Phật giáo Borobudur, Di sản Thế giới, bên trong lẫn bên ngoài, chúng tôi cũng làm đẹp lối vào khu vực Thánh địa Phật giáo này. Đây là một trong những điểm thu hút du khách thập phương hành hương chiêm bái, ưu tiên để chúng tôi cải thiện thật hoàn hảo hơn".
31/03/2022(Xem: 2264)
Trang web phi lợi nhuận The Irrawaddy đưa tin trong tuần này, Quân đội Myanmar đã lật đổ Chính phủ dân cử và trở thành Chính quyền quân phiệt độc tài Myanmar, hơn một năm trước họ đã phá hủy hơn 100 cơ sở tự viện Phật giáo và Thiên Chúa giáo tại các trung tâm, tây bắc và đông nam Myanmar, khi các hoạt động quân sự đang diễn ra nhằm dập tắt sự phản đối của thường dân đối với cuộc đảo chính quân sự đã đưa quốc gia Phật giáo đến bờ vực thẳm của nội chiến.
28/03/2022(Xem: 2326)
Kiến trúc sư Hoàng Tuấn Long sinh năm 1974, ở TP HCM, tốt nghiệp thạc sĩ khoa Kiến trúc Đại học Bách khoa Quốc gia Belarus. Anh là tác giả của hàng chục mô hình kiến trúc nổi tiếng như Chùa Một Cột, Ngọ Môn Huế, chợ Bến Thành, tháp đồng hồ Big Ben, đền Taj Mahal... làm từ cây tăm giang. Năm 2016, dự án Chùa Một Cột được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập mô hình làm từ gần 110.000 cây tăm giang trong sáu tháng. Năm 2020, anh được Liên minh Kỷ lục thế giới Worldking công nhận "Người đầu tiên trên thế giới sáng tạo, tái hiện các mô hình công trình di sản kiến trúc nổi tiếng trên thế giới bằng nghệ thuật Boarc".
25/03/2022(Xem: 2344)
Các học giả có thể vạch trần bức màn sự thật, ngay cả khi phải trả giá bằng sự mất hài hòa xã hội? Hay là tiếp tục tuyên truyền ảo tưởng, nếu ảo tưởng đó giúp giữ gìn trật tự xã hội? Trong cuốn sách mới nhất mà tôi viết "21 bài học cho thế kỷ 21", tôi đã phải đấu tranh với thế tiến thoái lưỡng nan này khi nói về Chủ nghĩa Tự do. Một mặt tôi tin rằng câu chuyện về tự do cá nhân đầy sai lầm, nó không lột tả sự thật về nhân loại và nếu muốn tồn tại và phát triển qua thế kỷ 21, chúng ta phải vượt qua được nó. Mặt khác, thời buổi hiện tại câu chuyện về Chủ nghĩa Tự do vẫn là điều căn bản thiết yếu nhằm duy trì trật tự toàn cầu. Hơn nữa, Chủ nghĩa Tự do bị tấn công bởi những kẻ điên cuồng vì chủ nghĩa dân tộc và tôn giáo, những kẻ cuồng tín vào những ảo vọng dĩ vãng thậm chí còn nguy hiểm và tai hại hơn rất nhiều.
23/03/2022(Xem: 2288)
Hôm thứ Tư, ngày 10 tháng 03 vừa qua, Liên minh của các tổ chức người Dalit ở Chik Ballapur, một thị xã và là nơi đặt hội đồng thành phố của quận Kolar thuộc bang Karnataka, Ấn Độ, đã đưa ra một tuyên bố yêu cầu Bộ trưởng Y tế bang Karnataka (BJP), Tiến sĩ K Sudhakar phải ngay lập tức từ chức. Tuyên bố do tổ chức Dalit Sanghatanegala Okkoota, Chikkaballapura, đưa ra trước những xúc phạm bởi Tiến sĩ K Sudhakar đã tố cáo Phật giáo và tuyên bố "Những tín đồ Bà La Môn đã cứu Ấn Độ thoát khỏi hiểm họa bởi Phật giáo".
22/03/2022(Xem: 2526)
Ở giai đoạn đầu cuộc đối thoại giữa đạo Phật và Cộng sản, hình như không thể đội trời chung, bất cộng đới thiên. Những người hy vọng về cùng sống hòa bình, đã suy đoán về những điểm tương đồng giữa Chủ nghĩa Cộng sản và đạo Phật: Người Phật tử và người Cộng sản đều không tin vào một đấng Thần linh sáng tạo thế giới vũ trụ muôn loài, và cả đạo Phật và Chủ nghĩa Cộng sản đều dựa trên tầm nhìn phổ quát của Chủ nghĩa Bình đẳng. Thậm chí trên thực tế Tăng đoàn Phật giáo (Sangha, 僧伽) còn được so sánh với một Xã hội Cộng sản.
22/03/2022(Xem: 2264)
Bìa cuốn sách: "100 Hành động Tàn ác của Đảng Cộng sản Trung Quốc gây Nợ máu với Nhân dân Tây Tạng". Ngày 01 tháng 07 vừa qua, lễ kỷ niệm 100 năm (1921-2021) ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP) đã được tổ chức tại quảng trường Thiên An Môn ở thủ đô Bắc Kinh, Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có bài phát biểu quan trọng tại sự kiện này, tác động dư luận quốc tế. "Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể cứu Trung Quốc, chỉ có chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc mới có thể phát triển Trung Quốc", ông Tập phát biểu trong video được truyền thông Trung Quốc phát trực tiếp. Ông tự ca ngợi về sự phát triển vượt bậc và hiện đại hóa của Trung Hoa mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đạt được 100 năm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567