Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

7. Nghịch Lý của cái Ngã Vô Tự Tánh

27/04/201106:53(Xem: 3898)
7. Nghịch Lý của cái Ngã Vô Tự Tánh

NHỮNG YOGA TÂY TẠNG VỀ GIẤC MỘNG VÀ GIẤC NGỦ

Nguyên tác: The Tibetan Yogas of Dream and Sleep
Nhà Xuất Bản Snow Lion Ithaca, New York, 1998
Việt dịch: Đương Đạo - Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 2000

PHẦN SÁU: NHỮNG BỔ SUNG

7. Nghịch Lý của cái Ngã Vô Tự Tánh

Nhưng làm sao, nếu nền tảng của cá thể là tánh thanh tịnh, trống không, lại có thể có một cái ngã quy ước và một tâm thức động hiện hữu? Ở đây là một thí dụ căn cứ trên những kinh nghiệm chúng ta đều có: khi chúng ta mộng, toàn bộ một thế giới biểu lộ trong đó chúng ta có thể có mọi loại kinh nghiệm. Trong giấc mộng chúng ta đồng hóa với một chủ thể, nhưng có những chúng sanh khác, bề ngoài có vẻ tách lìa chúng ta, có những kinh nghiệm riêng của họ và có vẻ thực như cái ngã mà chúng ta tự khoác vào. Cũng có một thế giới vật chất hiện diện: những sàn nhà giữ chúng ta đứng, thân thể chúng ta có những cảm giác, chúng ta có thể ăn và xúc chạm.

Khi thức dậy, chúng ta thấu hiểu rằng giấc mộng chỉ là một phóng chiếu của tâm thức chúng ta. Nó xảy ra trong tâm thức chúng ta và được tạo ra bằng năng lực của tâm thức chúng ta. Nhưng chúng ta mất vào trong nó, phản ứng với những hình ảnh do tâm thức tạo ra như thể chúng là thực và ở bên ngoài chúng ta. Tâm thức chúng ta có khả năng sáng tạo ra một giấc mộng và đồng hóa với những cá thể khác. Thậm chí chúng ta có thể đồng hóa với những chủ thể rất khác với chính chúng ta trong cuộc sống hàng ngày.

Là những người bình thường, trong cùng cách như vậy, hiện giờ chúng ta đồng hóa với một cái ngã quy ước, nó cũng là một phóng chiếu của tâm thức. Chúng ta liên kết với những đối tượng và những thực thể có vẻ như vậy chúng cũng là những phóng chiếu của tâm thức. Nền tảng của hiện hữu (kunzhi) có khả năng biểu lộ mọi sự hiện hữu, thậm chí cả những chúng sanh trở nên xao lãng khỏi thật tánh của chúng, cũng như tâm thức chúng ta có thể phóng chiếu những chúng sanh bề ngoài có vẻ tách lìa với chúng ta trong một giấc mộng. Khi chúng ta tỉnh dậy, giấc mộng – là cái ngã quy ước của chúng ta – tan biến vào tánh không thanh tịnh và sự sáng tỏ quang minh.

Những Lời Cuối

Những thực hành giấc mộng và giấc ngủ không phải là những thực hành phổ biến đối với người Tây Tạng. Chúng không thường được trao cho những hành giả trẻ, cũng không được dạy cho quần chúng bình thường. Nhưng sự việc đã thay đổi. Tôi dạy những việc này bởi vì nhiều người ở phương Tây có một quan tâm về những giấc mộng và việc mộng. Thường thì sự quan tâm này thuộc về tâm lý học; tôi hy vọng khi trình bày những giáo lý này công việc học hỏi giấc mộng sẽ tiến bộ sâu hơn. Việc học giấc mộng theo tâm lý học có thể tạo ra nhiều hạnh phúc hơn trong sanh tử và điều đó là tốt, nhưng nếu sự chứng ngộ toàn triệt là mục tiêu thì cần phải làm hơn thế. Đấy là tại sao yoga giấc ngủ thì đặc biệt quan trọng. Nó trọn vẹn nằm nơi trung tâm của thực hành Đại Toàn Thiện Dzogchen, thực hành này có thể tóm tắt như vầy: mỗi khoảnh khắc của đời sống – thức, mộng, và ngủ – đều an trụ trong tánh giác thanh tịnh bất nhị. Đây là con đường chắc chắn đến giác ngộ và là con đường mọi đạo sư thành tựu đã dùng. Đây là tinh túy của yoga giấc ngủ.

Làm thế nào bạn có thể có kinh nghiệm về tịnh quang? Tôi nghĩ rằng cần phải suy nghĩ về vấn đề này như với thái độ của bạn đối với giáo lý. Tất cả những giáo lý đều quy về một tinh túy duy nhất. Tôi ám chỉ rigpa, tịnh quang. Bất kể bạn học nhiều bao nhiêu, bạn nhận nhiều bao nhiêu giáo lý, bạn sẽ không nắm được điểm chính yếu nếu bạn không biết tinh túy duy nhất này. Người Tây Tạng có câu nói: “Bạn có thể nhận nhiều giáo lý đến độ đầu bạn phẳng lì vì chạm với cái bình quán đảnh, nhưng nếu bạn không biết cái tinh túy, thì chẳng có gì thay đổi.”

Khi người ta không biết trực tiếp bản tánh của tâm thức, những giáo lý có thể khó hiểu. Chúng hình như ám chỉ đến cái gì bất khả, bởi vì bản tánh của tâm thức thì vượt khỏi tâm thức ý niệm và không thể nắm bắt. Cố gắng nắm bắt bản tánh của tâm thức qua những ý niệm thì giống như cố gắng hiểu bản tánh của mặt trời bằng cách nghiên cứu những hình bóng: có cái gì đó có thể học được, nhưng tinh túy thì không được biết. Bởi thế tại sao thực hành là cần thiết, để vượt khỏi tâm thức động và để biết trực tiếp bản tánh của tâm thức.

Một số người tới chỗ cảm thấy mình bị chất nặng bởi mọi giáo lý họ đã tích tập được. Điều này là do một sự hiểu lầm về con đường. Hãy tiếp tục học hỏi và nhận lãnh những giáo lý, nhưng hãy phát triển một cái hiểu đủ sâu để bạn có thể lấy từ chúng cái gì trợ giúp cho bạn. Những giáo lý không phải là một sự bó buộc một khi bạn hiểu và áp dụng chúng. Chúng là một con đường đến tự do và có niềm vui khi đi theo con đường đó. Chúng chỉ cảm thấy như một gánh nặng nếu người ta mắc lầy trong hình thức của chúng mà không hiểu mục tiêu của chúng. Cần phải học làm thế nào tóm kết những giáo lý; điều này được làm không phải qua những ngôn từ hay ý niệm, mà bằng kinh nghiệm.

Mặt khác, chớ để cho bạn bị mắc vào sự thực hành. Điều này là sao? Nếu bạn tiếp tục thực hành mà không có kết quả, không có đổi thay tích cực nào trong đời sống, sự thực hành là không công hiệu. Chớ nghĩ rằng bạn đang thực hành nếu bạn chỉ trải qua những hoạt động mà không hiểu gì hết. Những nghi thức trống rỗng thì thành tựu ít ỏi. Bạn cần đi vào thực hành với hiểu biết, xác định cái gì là tinh túy và làm sao áp dụng nó.

Pháp thì thực sự uyễn chuyển. Nhưng nói thế không có nghĩa là bạn nên vất bỏ truyền thống và tạo lập cái riêng của bạn. Những thực hành này là đầy năng lực và hiệu quả. Chúng đã là cỗ xe cho vô số người thực hiện được giải thoát. Nếu sự thực hành không công hiệu, phải làm thí nghiệm để cố gắng tìm ra đâu là mục tiêu của sự thực hành. Tham hỏi với thầy của bạn là tốt nhất. Khi bạn hiểu những thực hành, bạn cũng sẽ thấy rằng hình thức không phải là vấn đề; chính sự áp dụng hình thức mới cần được hoàn thiện. Sự thực hành có ở đây là để cho bạn, không phải bạn để cho nó. Hãy học hình thức, hiểu mục tiêu của nó, áp dụng nó trong thực hành, và hãy chứng ngộ kết quả.

Đâu là nơi bạn tóm kết rốt ráo sự thực hành? Trong tiến trình của cái chết, trung ấm. Trung ấm sau khi chết giống như một phi trường chính yếu mà ai cũng phải đi qua trên những cuộc du lịch của mình. Nó là đường ranh giữa sanh tử và niết bàn. Khả năng an trụ trong hiện diện bất nhị là giấy thông hành cho phép vào niết bàn. Nếu bạn chưa hề có kinh nghiệm về tịnh quang trong khi ngủ, khó mà ra khỏi sanh tử khi đang trong trung ấm; vì nếu giấc ngủ dày đặc bao phủ tịnh quang, thì một khoảng trống của tư tưởng dày đặc cũng bao phủ rigpa. Nếu bạn có thể hội nhập với tịnh quang của giấc ngủ, bấy giờ bạn có thể hội nhập với tịnh quang của cái chết. Hội nhập với tịnh quang của giấc ngủ thì giống như vượt qua những kỳ thi sát hạch giữa khóa học; rồi bạn sẽ làm tốt và chắc chắn sẽ vượt qua kỳ thi sát hạch cuối cùng được đưa ra trong trung ấm. Hội nhập với tịnh quang của cái chết nghĩa là tìm thấy Phật trong chính bạn và có thể chứng ngộ một cách trực tiếp rằng cái gì khởi lên đều là hình tướng không có bản chất, vô tự tánh.

Sự hiện diện của rigpa tiếp tục từ thế giới này sang thế giới tiếp, thế nên hãy thực hành để kinh nghiệm nó ngay bây giờ, đểù trở thành nó và an trụ trong nó. Đó là con đường, sự tương tục của sáng tỏ và trí huệ bất đoạn. Tất cả mọi chúng sanh đã thành tựu giác ngộ và thành Phật đều đã băng qua biên giới và đi vào tịnh quang. Hãy biết cái ấy để bạn biết bạn đang sửa soạn cho cái gì. Hãy cố gắng nắm được ý nghĩa của toàn bộ những giáo lý, bạn đang ở đâu và bạn đang đi tới những chỗ nào. Bấy giờ bạn sẽ biết làm sao để áp dụng chúng, khi nào dùng cái gì, và những kết quả sẽ là gì. Những giáo lý giống như một bản đồ có thể nói cho bạn biết bạn đi đâu, ở đâu để tìm thấy cái bạn đang tìm kiếm. Bản đồ nói rõ mọi sự. Không có nó bạn có thể lạc mất.

Hãy cầu nguyện được nối kết với tịnh quang khi chết. Hãy cầu nguyện rằng mọi người được nối kết với bản tánh của tâm thức vào thời điểm cái chết của họ. Năng lực của lời cầu nguyện rất vĩ đại. Khi bạn cầu nguyện, quyết tâm được phát triển, và điều bạn cầu nguyện cho sẽ tiến đến thành tựu.

Mọi cá nhân đều kinh nghiệm những giây phút an vui. Nếu tịnh quang có vẻ là một mục đích xa xôi, hãy cố gắng chỉ liên tục duy trì những kinh nghiệm an vui tích cực này. Có lẽ khi bạn nhớ đến đạo sư hay dakini bạn cảm thấy vui, hay khi bạn tham dự vào vẻ đẹp của thế giới thiên nhiên, hạnh phúc sanh khởi. Hãy biến điều ấy thành một thực hành. Hãy phát sanh lòng biết ơn và cảm kích trong mọi giây phút. Tịnh quang là tột đỉnh của kinh nghiệm huyền bí, niềm vui cao nhất và sự an bình vĩ đại nhất. Thế nên hãy lấy niềm vui và an bình như những phẩm tính để duy trì, như những nâng đỡ trong việc phát triển sự liên tục của tỉnh giác. Hãy cảm thấy những phẩm tính này trong thân, thấy chúng trong thế giới, và mong ước chúng cho những người khác. Qua việc làm điều này, bạn có thể phát triển tỉnh giác trong khi làm sanh khởi lòng bi và những đặc tính tích cực.

Liên tục là chìa khóa để hội nhập đời sống và thực hành. Với tỉnh giác và quyết tâm, liên tục có thể được khai triển. Khi có nó, cuộc đời bạn sẽ khác, và bạn sẽ trở thành một ảnh hưởng tích cực trên đời sống chung quanh bạn.

Những yoga giấc mộng và giấc ngủ là những phương pháp để nhận biết tịnh quang và an trụ trong nó qua mọi khoảnh khắc của đời sống: thức, thiền định, mộng, ngủ và chết. Về căn bản, những giáo lý được nói lên để giúp chúng ta nhận biết bản tánh của tâm thức, để hiểu và vượt thắng những chướng ngại trong sự thực hành của chúng ta, và để an trụ hoàn toàn trong rigpa. Chúng ta có thể dùng cùng những phương pháp để ở lại trong niềm vui, để tìm thấy thanh bình giữa sự ồn ào của thế giới, để sống tốt đẹp, và để hân thưởng mỗi khoảnh khắc sống động trẻ trung của hiện hữu làm người của chúng ta.

Những đạo sư vĩ đại đã viết rằng các vị đã để nhiều năm thực hành kiên trì để hoàn thành yoga giấc ngủ, thế nên chớ có nản lòng nếu bạn không có kinh nghiệm trong lần đầu hay lần thứ một trăm bạn cố gắng với nó. Có những lợi lạc từ sự thử thách với thực hành. Mọi thứ gì đem lại cho bạn nhiều tỉnh giác hơn đều lợi lạc. Phải có quyết tâm và thực hành lâu dài, bền bỉ để thành tựu mục đích. Chớ để cho bạn nản chí. Hãy đem toàn bộ hiện thể của bạn vào thực hành; với quyết tâm mạnh mẽ và nỗ lực hân hoan bạn chắc chắn sẽ thấy cuộc đời bạn thay đổi theo những đường lối tích cực và chắc chắn sẽ hoàn thành những thực hành.

Tôi hy vọng rằng những ai đọc cuốn sách này sẽ khám phá một tri thức mới về giấc mộng và giấc ngủ, tri thức sẽ giúp cải thiện đời sống hàng ngày của họ và cuối cùng sẽ dẫn tới giác ngộ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/01/2012(Xem: 8962)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
16/09/2011(Xem: 5529)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
11/08/2011(Xem: 3816)
Hệ thống đẳng cấp đã tồn tại ở Ấn hàng nghìn năm trước và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của người dân Ấn hiện nay. Hệ thống đẳng cấp, như thường được biết, có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo, hay nói khác đi là một sản phẩm của Bà La Môn giáo. Nhưng về sau, hệ thống đẳng cấp đã vượt ra khỏi Bà La Môn giáo và xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những tôn giáo có nguồn gốc bên ngoài Ấn Độ. Bài viết này tìm hiểu một vài khía cạnh về hệ thống đẳng cấp trong các tôn giáo ở Ấn Độ.
07/07/2011(Xem: 28204)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 5643)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 8353)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 4792)
Một sự trình bày rõ ràng và trung thực về Phật giáo Tây Tạng, quyển sách này trình bày căn bản của Phật pháp theo một đường lối mà mọi người đều có thể hiểu được khi đọc và dễ dàng tu tập trong cuộc sống hàng ngày. Được soạn thảo riêng cho những người mới tìm hiểu vấn đề này lần đầu tiên, quyển sách này cũng còn cung cấp những kiến thức quý báu cho những đệ tử đã thông hiểu Phật giáo Tây Tạng.
22/06/2011(Xem: 3608)
Cách đây không lâu, cả thế giới đã lên tiếng phản đối hành động điên cuồng phá hủy hai tôn tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới tại Bamiyan (Afghanistan) của chính quyền Taliban cực đoan. Sau hành động phá hoại đó, không ít người ngỡ rằng những di tích nền văn minh cổ xưa của Phật giáo tại nơi đây đã bị hủy diệt hoàn toàn; tuy nhiên, điều đó thực tế đã không phải như vậy. Cách đây gần một thập niên, giới khảo cổ học đã khai quật và phát hiện ở Bamiyan những di liệu văn học Phật giáo hết sức kỳ diệu, những minh chứng hùng hồn cho một giai đoạn phát triền rực rỡ của Phật giáo tại nơi này một trung tâm Phật giáo quan trọng ngoài Ấn Độ. Sự phát triển đó đá tạo nên một nền văn minh riêng biệt, gọi là nền văn minh Phật giáo Gandhàra.
20/06/2011(Xem: 7239)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 3951)
Phong trào Phật giáo nhân gian (人間佛教) xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Từ những năm thập niên 80 thế kỷ trước, phong trào này trở thành một khuynh hướng chính của Phật giáo ở Trung Hoa lục địa, Đài Loan và Hồng Kông, vượt thoát những khác biệt tông phái và vùng miền. Cho dù ở bên trong phạm vi Phật giáo, hay ở trong giới học giả hay các phân khoa hành chính tôn giáo, mỗi khi thảo luận về tình hình hiện nay và việc phát triển Phật giáo Trung Quốc trong tương lai, người ta không thể bỏ qua chủ đề Phật giáo nhân gian.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567