Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Từ “Sáu Bài Ca Kim Cương”

09/01/201106:25(Xem: 4589)
14. Từ “Sáu Bài Ca Kim Cương”

14

Từ “Sáu Bài Ca Kim Cương”


Một lần nọ, Jetsušn và Rechungpa đi cùng với nhau một cuộc du hành lâu dài. Tới phía bắc của dòng sông Tsangpo, họ đến một nơi gọi là So. Ở đó có nhiều người chăn gia súc ; thế nên các ngài đi khất thực. Một người đàn ông nói với họ, “Khất thực mỗi ngày là một vấn đề khó khăn. Tôi sẽ cho các vị một cái bao để các vị có thể cất thức ăn từ những người ở đây. Các vị còn không có áo quần thích hợp để ở lại đây dù ít lâu.”

Như thế Jetsušn hát cho ông ta bài ca này :

Bậc cứu độ quý giá, vô thượng của chúng sanh
Xin hãy đến ngự trên đỉnh đầu của chúng tôi,
Và hướng dẫn chúng tôi với sự chú tâm không lay động
Xin hãy để những ân phước cho thành tựu rơi xuống như mưa.

Này các thí chủ đầy đủ đức tin,
Do món quà cái bao để mang của các bạn
Và lời khuyên chu đáo
Mong rằng những kho của các bạn được hoàn thành
Và những che chướng được xóa sạch.

Chỉ có một hơi thở mong manh
Trên biên giới của đời này và đời tới.
Không biết tôi có còn ở đây đến sáng mai hay không,
Vậy tại sao cố gắng đánh lừa cái chết
Bằng những chương trình của cuộc đời cho một tương lai trường tồn ?
Tôi ăn thứ gì tôi có được ;
Dùng sự nuôi dưỡng như những nhà khổ hạnh vẫn dùng.
Tôi đã làm thế suốt cuộc đời làm người của mình,
Và bây giờ sẽ tiếp tục cách bình thường của tôi.
Tôi không muốn cái bao của những thí chủ.

Xúc động bởi niềm tin mạnh mẽ, người chăn đàn gia súc đảnh lễ, nói, “Tôi không có áo bông lành lặn. Xin hãy chấp nhận cái áo nỉ này.”

Để trả lời Mila hát một bài khác :

Bị dẫn dắt bởi phiền não và hành động do mê lầm gây nên,
Tâm thức trần truồng, không bản chất này
Lang thang trong thành phố của sáu cõi huyễn mộng
Và ngủ trên những đại lộ của sanh, chết và trung ấm.

Nó bị dẫn dắt bởi những cơn sóng của tham dục ám ảnh,
Đốt cháy bởi những ngọn lửa của thù hận bừng bừng,
Và bọc kín trong đám mây tối tăm của vô minh.

Lung lay trên vực thẳm từ chót đỉnh của lòng kiêu mạn,
Bị quất giật bởi ngọn gió lạnh buốt của ghen ghét,
Nó chìm trong bãi lầy của thèm thuồng sanh tử.

Leo nơi vách đá của trung ấm và giấc mộng,
Nó rơi vào vực thẳm của phiền muộn và bản năng,
Bị cuốn trôi bởi dòng hành động xấu xa, mê tối.

Cháy bừng với những ý niệm mê vọng về cái bên ngoài giả dối,
Nó chỉ nghỉ ngơi trong bóng tối của vô thức.
Chiến đấu qua trung ấm vực thẳm đến sự tái sanh
Nó bị thổi tung bởi những ngọn gió nghiệp mạnh mẽ đi khắp mười phương.

Bốn đại trong thân của nó trở lại chống chính nó ;
Địa đại bão hòa với nước,
Không đại hoàn toàn cháy tiêu trong lửa.
Bóng tối thăm thẳm của nghiệp phủ xuống
Khi nó chìm vào bãi lầy của những cảm thọ dữ dội, sợ khiếp.

Nhưng từ một lama có năng lực để ban phước
Hãy cầu xin những giáo huấn sâu xa cho con đường
Nó dẫn dắt đến nơi giải thoát
Khỏi những biến cố đáng sợ do những hành động như thế mang lại.

Hãy phát giác trạng thái chân thực của sanh, chết và trung ấm !
Hãy xé rách toang cái bao những lừa dối của trung ấm và giấc mộng !
Hãy phá bung bày lộ bản tánh chân thật của trung ấm tái sanh !
Hãy dẹp tắt mọi huyễn hoặc bên trong !
Hãy nhìn thấy tinh túy thực sự của tâm.

Hãy để sự chứng ngộ trạng thái tự nhiên được chiếu sáng.
Vứt đi sự luyến bám của chấp ngã.
Hãy giải thoát sự chấp trụ gắn vào sự vật.

Với hơi nóng phúc lạc của tummo cháy trong thân tôi
Cái áo vải đơn giản này là đã đủ.
Tôi ăn thức ăn làm sẵn của định,
Rút vào tinh túy của tầm ma và đá.(25)
Giải cơn khát của tôi ở dòng giác ngộ.
Ngay cả nếm một ít nước tiểu và phân của chính tôi.(26)

Tôi nương tựa sự sung túc thường trực của sự bằng lòng,
Và buồn bã cho những người bạn trong sáu cõi sanh tử.
Đôi khi tôi đi khất thực không chọn lựa chỗ nào,
Luôn luôn lang thang ở nơi hoang vu không mục đích.

Mùa đông tôi ngủ trong những chốn ẩn cư núi non,
Áo vải bông cháy như đám lửa
Mùa hè tôi ngủ trong những thung lũng nóng và khô,
Áo vải bông mát lạnh như ngọn gió.

Vào xuân tôi ở trên những hẻm núi,
Áo vải bông như len.
Vào thu tôi ra ngoài khất thực,
Áo vải bông nhẹ như một lông chim.
Bạn thật sự hạnh phúc, phải thế không, thiền giả ?
Có ai khác hạnh phúc như tôi ?

Với bài ca này ngài từ chối áo nỉ. Mọi người đều cảm xúc mạnh mẽ và cầu xin đi vào giáo pháp với ngài. Vị thí chủ đặc biệt ấy bỏ tất cả công việc của mình và theo Jetsušn, cuối cùng trở thành một thiền giả với một vị trí vững chắc trên đường đạo.

Sau khi vượt sông Tsangpo, họ du hành về phía Nam, xuống những cánh đồng và trang trại xứ Mar. Ở một góc làng, một đám đông đang tụ hội và Jetsušn kêu lên, “Người nào có lòng tin – hãy cho hai thiền giả chúng tôi thực phẩm ngày hôm nay !”

Một người trẻ trả lời, “Tôi đã thấy những người ăn mày, nhưng không ai tồi tàn bằng hai người ! Các ông không có áo để che thân hay một cái bao đựng thức ăn hay ngay cả một thái độ khiêm tốn. Các ông khỏi phải xin tôi – các ông đã cho tôi một màn trình diễn chính cống !”

Một người đàn bà trẻ sửa soạn bột lúa mạch và đưa cho cùng với bơ và một chén ya-ua, nói rằng, “Bây giờ các vị có thể thu nhận đồ ăn từ những người khác nữa.”

Jetsušn trả lời, “Đủ cho hôm nay rồi. Chúng tôi giữ lời nguyện chỉ khất thực ở “cửa nhà đầu tiên”. Dù nếu chúng tôi khất thực ở những người khác, chúng tôi cũng không có đồ đựng hay bao bị để mang chúng.”

Người trẻ tuổi lại nói, “Các ông không có bài ca, khúc hát, không trống, không ban phước, không cầu nguyện, không cảm kích, không cám ơn, không áo quần và không biết hổ thẹn.”

Người đàn ông khác thêm vào, “Nếu các ông có bài ca nào, hãy hát đi.”

Thế nên Jetsušn hát bài ca này :

Lama quý báu, người hướng dẫn con đường chân chánh,
Con cầu nguyện ngài – cho con ân phước.

Giờ hãy nghe, người đàn ông trẻ hùng biện :
Bằng lòng tốt của lama-cha độc nhất của tôi
Tôi được nuôi nấng với phương tiện và tình thương thuộc cha,
Dưỡng dục nơi vú trí huệ tánh Không thuộc mẹ,
Và sống bằng thực phẩm của sự hợp nhất sâu xa.

Giờ tôi đã hoàn thiện kinh nghiệm và thiện xảo.
Sự chuyển hóa do quán tưởng thành cái thiêng liêng,
Với tỉnh giác đầy thần lực về trạng thái tự nhiên,
Sức mạnh bên trong của cái thấy, thiền định và thực hành,
Và hơi nóng phúc lạc của AH của tummo ngời sáng trong thân.

Cỡi con ngựa huyễn của tâm và khí.
Tôi phóng xa khỏi tầm với của Thần Chết.
Và đi qua thành phố của giải thoát đầy phúc lạc.
Nhờ công đức của tặng vật của người đàn bà này
Nguyện cho tất cả chúng sanh, dẫn đầu là bà,
Có cuộc đời mạnh khỏe, dài lâu và hạnh phúc –
Và cuối cùng đạt đến Phật tánh hoàn hảo.
Hỡi người đàn ông trẻ, vào thời điểm chết của ông,
Mong ông được vào tịnh quang của pháp thân
Với tâm thức và trí nhớ không bị che ám,
Trải nghiệm những giai đoạn của cái chết đến khi tịnh quang mọc lên.

Mọi người kính lễ và bao quanh ngài. Người đàn ông trẻ tạ lỗi, và trong sự tin tưởng lớn lao người đàn bà trẻ thỉnh cầu chỉ dạy, cởi một viên ngọc bích từ cổ làm vật cúng dường. Jetsušn, từ chối bằng bài ca :

Con cầu nguyện những lama của con –
Xin các ngài ban phước cho những người tín mộ này.

Viên ngọc quý này của tịnh quang
Của nhất thiết trí thanh tịnh bổn nhiên
Được giữ chặt trong cái móc gài của đại bi và tánh Không,
Được đánh bóng bởi sự sáng tỏ của nội quán,
Và xâu trên xâu chuỗi của trạng thái tự nhiên.

Đây là hòn đá nơi sanh ra của tôi, người hành thiền.
Tôi không muốn vật quý giá của bà ;
Nhưng do công đức cúng dường nó cho tôi
Với lòng tin và sùng mộ,
Nguyện bà hoàn thành hai kho công đức và trí huệ.
Và may mắn có được sắc thân tuyệt hảo
Trang hoàng với tất cả tướng tốt.

Mong bà có may mắn được cuộc đời sống lâu sung túc.
Mong bà có may mắn được hạnh phúc bây giờ
Mong bà có may mắn được niết bàn vào lúc cuối
Mong bà có may mắn được pháp thân cho chính bà,
Và sắc thân vì lợi lạc của những người khác.

Được dân chúng mời, họ ở lại vài ngày để dạy đạo, sau đó họ đi du hành một ngày qua Tra Rum. Họ ở trong một căn nhà bỏ hoang đêm ấy và bỏ đi sáng sớm hôm sau. Trên đường họ gặp một người đàn bà xách nước. Mila cầm gấu áo bà và nói, “Nào, cho những thiền giả chúng tôi chút đồ ăn sáng !”

“Các thiền giả tham ăn !”, bà trả lời, giật gấu áo lại, “Các vị đến từ đâu, mà chộp lấy tôi và hỏi tôi có gì cung cấp cho cái bụng của các vị ? Các vị cần để ý đến cái bao tử của tôi ! Tôi chắc chắn các vị có một chỗ cho riêng các vị – hãy đi canh tác nó mà ăn. Các vị cũng có một thân thể như tôi vậy.”

Như thế Mila hát cho bà bài ca này về sự phân biệt cái tương tự :

Tâm đích thực, trong sáng và trống không,
Giống như hư không –
Nhưng sự so sánh tâm với hư không sẽ không vững,
Vì tâm thì biết, dù trống không,
Trong khi hư không thì trống không, không có thức giác.
Chúng tương tự trong sự trống không của chúng,
Nhưng thực tế rất khác nhau.

Tâm đích thực, trong sáng và trống không,
Giống như mặt trời và mặt trăng –
Nhưng sự so sánh tâm với mặt trời và mặt trăng sẽ không vững,
Vì tâm thì trong sáng và không chất thể ;
Trong khi mặt trời và mặt trăng thì trong sáng nhưng cứng đặc.
Chúng tương tự trong sự trong sáng của chúng,
Nhưng thực tế rất khác nhau.

Tâm hiện thực này, trong sáng và trống không,
Giống như trái núi trụ vững ở đây –
Nhưng sự so sánh tâm với trái núi sẽ không vững,
Vì tâm thì không hợp tạo
Trong khi trái núi kia tạo thành bởi các nguyên tử.
Chúng tương tự trong sự không biến động của chúng,
Nhưng thực tế rất khác nhau.

Tâm hiện thực này, trong sáng và trống không,
Giống như dòng sông chảy xuống ở đây –
Nhưng sự so sánh tâm với dòng sông sẽ không vững,
Vì tâm thì không hợp tạo
Trong khi dòng sông kia là sự tụ hội của nhiều dòng suối.
Chúng tương tự trong sự trôi chảy thường trực của chúng
Nhưng thực tế rất khác nhau.

Tâm hiện thực này, trong sáng và trống không,
Giống như nhau giữa tôi và bà –
Nhưng sự so sánh giữa tôi với bà sẽ không vững.
Bà đắm mình trong những công việc thế gian :
Phóng dật với lao nhọc buồn chán suốt ngày,
Mê mờ với giấc ngủ ban đêm,
Một kẻ nô lệ cho tham ái từ bình minh đến hoàng hôn.

Tôi là một thiền giả khổ hạnh :
Tôi làm việc cho lợi lạc của chúng sanh suốt ngày,
Tôi đắm mình trong tịnh quang suốt đêm,
Thờ cúng với những torma từ bình minh đến hoàng hôn.
Chúng ta tương tự trong thân thể người,
Nhưng rất khác nhau trong thành công của đời sống chúng ta.

Người đàn bà cực kỳ xúc động và cuối cùng mời họ vào nhà và tiếp đãi rất tôn kính. Bà cắt tóc, đổi tên và thỉnh cầu giáo huấn về thực hành đại ấn, dâng cúng một cục vàng cho lễ nhập môn. Về sau bà trở thành một người đàn bà chứng ngộ tuyệt hảo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2012(Xem: 7549)
Trong sự phát triển quá nhanh chóng của xã hội ngày nay, phật tử khắp nơi trên thế giới trở nên linh hoạt hơn trong việc bảo vệ lẫn truyền bá tư tưởng đạo Phật của họ. Với con số khoảng 500 triệu phật tử, đạo Phật được xem là tôn giáo lớn nhất thứ tư của hành tinh này. Đạo Phật có hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, trong đó gồm có môn Thiền quen thuộc cùng những bản kinh dịch khác nhau của người Tây Tạng...
07/01/2012(Xem: 10662)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
04/01/2012(Xem: 9918)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
16/09/2011(Xem: 6110)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
11/08/2011(Xem: 4456)
Hệ thống đẳng cấp đã tồn tại ở Ấn hàng nghìn năm trước và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của người dân Ấn hiện nay. Hệ thống đẳng cấp, như thường được biết, có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo, hay nói khác đi là một sản phẩm của Bà La Môn giáo. Nhưng về sau, hệ thống đẳng cấp đã vượt ra khỏi Bà La Môn giáo và xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những tôn giáo có nguồn gốc bên ngoài Ấn Độ. Bài viết này tìm hiểu một vài khía cạnh về hệ thống đẳng cấp trong các tôn giáo ở Ấn Độ.
07/07/2011(Xem: 30805)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
06/07/2011(Xem: 6675)
Công Trình Xây Dựng Tượng Di Lặc Tại Ấn Độ, Đức Phật Di lặc (Maitreya, The Future Buddha) sẽ giáng trần và truyền Pháp độ sanh sau khi chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca không còn trên thế gian này. Trong Khế Kinh ghi rằng đức Phật Di lặc sẽ giáng sanh và chứng đạo tại thánh địa Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ nơi đức Thích Ca Mưu ni đã chứng quả hơn 2500 năm về trước. Hàng năm cứ hàng ngàn khách hành hương trên khắp thế giới về thăm Thánh tích này. Để cho mọi Phật tử trong mười phương "Gieo duyên" với đức Phật Di lặc, cách đây khoảng 10 năm, cố Đại sư Thubten Yeshe, sáng lập viên "Hội Bảo Vệ Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa" (FPMT) thuộc Phật giáo Tây Tạng đã phác thảo một kế hoạch xây dựng tượng Di lặc tại Bodhgaya. Kế hoạch đó nay sắp trở thành hiện thực. Vào ngày 20, 21 và 23 tháng 3 năm 1996 tại Bodhgaya, (về sau công trình này đã dời về địa điểm Kushinagar, Uttar Pradesh), Giới Phật giáo Tây Tạng và Ấn Độ đã long trọng tổ chức lễ đặt đá và khởi công xây dựng tượng Di lặ
02/07/2011(Xem: 9598)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 5641)
Một sự trình bày rõ ràng và trung thực về Phật giáo Tây Tạng, quyển sách này trình bày căn bản của Phật pháp theo một đường lối mà mọi người đều có thể hiểu được khi đọc và dễ dàng tu tập trong cuộc sống hàng ngày. Được soạn thảo riêng cho những người mới tìm hiểu vấn đề này lần đầu tiên, quyển sách này cũng còn cung cấp những kiến thức quý báu cho những đệ tử đã thông hiểu Phật giáo Tây Tạng.
22/06/2011(Xem: 4200)
Cách đây không lâu, cả thế giới đã lên tiếng phản đối hành động điên cuồng phá hủy hai tôn tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới tại Bamiyan (Afghanistan) của chính quyền Taliban cực đoan. Sau hành động phá hoại đó, không ít người ngỡ rằng những di tích nền văn minh cổ xưa của Phật giáo tại nơi đây đã bị hủy diệt hoàn toàn; tuy nhiên, điều đó thực tế đã không phải như vậy. Cách đây gần một thập niên, giới khảo cổ học đã khai quật và phát hiện ở Bamiyan những di liệu văn học Phật giáo hết sức kỳ diệu, những minh chứng hùng hồn cho một giai đoạn phát triền rực rỡ của Phật giáo tại nơi này một trung tâm Phật giáo quan trọng ngoài Ấn Độ. Sự phát triển đó đá tạo nên một nền văn minh riêng biệt, gọi là nền văn minh Phật giáo Gandhàra.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]