Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Mila giải thoát cho một bà lão

09/01/201106:25(Xem: 4392)
13. Mila giải thoát cho một bà lão

13

Mila giải thoát cho một bà lão


Bấy giờ Jetsušn vĩ đại trở lại Hang Răng Ngựa Đá Trắng và chỉ dạy những repa trẻ, cầm đầu bởi Seban Repa, về tummo yoga. Ngài bảo họ, “Tất cả các con hãy hiến mình cho sự thực hành.” Rồi ngài đi với Rechung Dorje Drakpa đến cao nguyên Pelmo để khất thực.

Đến Ber Tser trên cao nguyên Pelmo, họ khất thực ở một nơi cắm trại lớn. Một người đàn bà già la lên, “Các thiền giả ! Các người làm hư hại ! Các kẻ giết người ! Các người đang tìm cách dối gạt và cướp bóc ta ư ? Các người nghĩ rằng ta không thể quản lý tài sản, nhà cửa, đàn ngựa và đàn cừu của ta sao ? Những lều này bên phải thuộc về các con trai và các cháu trai ta. Những cái bên trái là lều các con rể ta. Tốt nhất là chớ đi quanh đây !”

Như thế Jetsušn hát cho bà bài ca này :

Con cầu nguyện bậc bảo vệ thiêng liêng của chúng sanh –
Xin giữ gìn con trong sự chú ý không xao động.

Tóc đã ngả trắng, nhưng không nhớ gì về Pháp,
Mặt đầy nếp nhăn, nhưng không để ý gì đến cái chết,
Mắt thụt vào trong thịt, nhưng chiếu tia giận dữ,

Miệng không còn răng, nhưng còn thốt lời nguyền rủa,
Thân thì còng, nhưng cố gắng làm cho hấp dẫn.
Hãy nghe đây, hỡi bà giàu có,
Ích kỷ và đầy ngạo mạn :

Bà đang cỡi con ngựa tham dục mãnh liệt,
Cầm trên tay ngọn thương thù ghét,
Với dải đen của mê mờ cột quanh trên đầu.

Bị cái roi của lòng tham lam ghen tỵ dẫn dắt,
Bà làm cho vùng quê đầy tiếng la kiêu hãnh.
Bà mang sức nặng của sự keo kiệt sau lưng
Và dương cao khối nặng của tội lỗi.
Bà vây quanh mình với mười nghiệp ác
Và quay lưng với Tam Bảo.
Bà đã ném đi mười nghiệp thiện
Và có mối thù địch thường trực với Pháp.

Mang theo sự giàu có những tội lỗi chín muồi này,
Bà sẽ có chỗ nào đó trong cõi thú,
Dừng một lát trong cõi ngạ quỷ,
Và làm nhà trong những cõi địa ngục.

Sự khốn khổ của u mê thú vật thì còn ít ;
Còn tệ hơn là khốn khổ của đói và khát,
Và tệ nhất là sự đớn đau của hành hạ địa ngục.

Ôi người đàn bà luôn luôn tìm kiếm điều lợi,
Khi những khó khăn ấy rơi xuống trên đầu bà,
Chớ có kêu la lớn tiếng !

Trong cơn điên cuồng cùng cực bà rống lên, “Thiền giả, nếu ông có những chỉ trích xấu xa như vậy với người ta, tại sao ông đi khất thực vòng quanh làm gì ?” Và cầm lấy một cây sào bên cạnh lều, bà đánh Jetsušn nhiều cái.

Jetsušn nói, “Hỡi Rechungpa, khi phiền não khởi lên, hãy áp dụng đối trị. Hãy tham thiền nhẫn nhục.” Và ngài hát bài ca này :

Con cầu nguyện đến lama bi mẫn.

Tôi đã phát sanh tâm hướng đến giác ngộ tối thượng ;
Và chứng ngộ rằng tất cả chúng sanh là cha mẹ của tôi,
Tôi đáp lại sự làm hại của họ bằng sự giúp đỡ –
Làm sao tôi bao giờ có thể có một cảm giác giận dữ ?

Người đàn bà già lão vướng mắc trong những hành động xấu,
Nguyện điều hại này bà đã gây cho tôi
Được là một nguồn giúp đỡ cho bà
Trong mọi đời tới của tương lai.

Toàn bộ những quán đảnh tôi đã nhận
Chuyển hóa thế giới hiện tượng bề ngoài thành thân thể bổn tôn,
Khiến tôi nghe tất cả âm thanh là thần chú,
Và soi sáng những hình tướng tư tưởng là pháp thân –
Làm sao có bao giờ tôi nổi giận được với bà ?

Mọi sự vật vốn như hư không.
Bản thân hư không không có tính chất –
Tự bản chất, nó không hiện hữu.
Cũng không phải là không hiện hữu –
Nó siêu việt tư tưởng có-không nhị nguyên.

Tôi, thiền giả như hư không,
Đã thấy bản tánh của hư không.

Nằm xuống bên bờ một khoảng đất cát, ngài ngủ. Khi vừa thức dậy lúc sáng sớm, ngài nghe tiếng khóc. Một lát sau, một người đàn ông đi đến, và sau khi làm lễ, nói rằng, “Lama tôn quý, người đàn bà đã già, mẹ tôi, đã chết tối hôm qua. Xin ngài tới giúp cho làm lễ tang.”

Rechungpa nói, “Đây chắc là sự kết án của những dakini.”

Thế rồi thầy và trò đi đến, và sau khi ban phước cho cái xác, Mila hát :

Đảnh lễ các lama cha của con –
Xin ban phước cho chúng con được chánh niệm về vô thường và cái chết.

Nhìn lại quê hương nơi tôi đã sinh ra,
Chốn vô thường như một đô thị của hồn ma,
Nó xuất hiện như một đô thị, nhưng không có gì cả – như thế tôi buồn rầu ;

Nhưng xem đó, tâm tôi trở nên vui vẻ.
Chớ có xem quê hương là thường còn, hỡi những người phước đức.

Nhìn lại những bạn bè tôi đã có,
Vòng quay vô thường như quán trọ ngoài chợ
Nơi người ta nhóm lại vào ban đêm và bỏ đi buổi sáng,
Họ là một vòng nhóm không tan vỡ, nhưng rồi tan tác – như thế tôi buồn rầu.
Chớ có xem bạn bè là thường còn, hỡi những người phước đức.

Nhìn lại những tài sản tôi đã thu góp
Sự giàu có vô thường như một con ong,
Tôi gom góp, nhưng người khác hưởng – như thế tôi buồn rầu.
Chớ có xem giàu có là thường còn, hỡi những người phước đức.

Nhìn lại thế giới bề ngoài,
Những hình tướng vô thường như một cầu vồng trong bầu trời,
Như một cầu vồng biến mất – như thế tôi buồn rầu.
Chớ có xem những hình tướng là thường còn, hỡi những người phước đức.

Nhìn lại sự tự thức giác của tâm thức tôi,
Ý thức vô thường như một con chim non trên ngọn cây,
Nó không thể giữ yên chỗ đậu – như thế tôi buồn rầu.
Chớ có xem tâm thức là thường còn, hỡi những người phước đức.

Nhìn lại thân thể tôi đã được sinh ra này,
Thân vô thường như đêm vừa qua của người đàn bà già,
Và như người đàn bà già ấy, nó sẽ chết – như thế tôi buồn rầu
Nhưng xem đó, tâm tôi trở nên vui vẻ.
Chớ có xem thân thể là thường còn, hỡi những người phước đức.

Mọi người hiện diện đều cảm xúc và cúng dường sự phục vụ của mình. Họ nói, “Bà lão không ý thức đã lăng mạ một vị Phật đến trước cửa bà. Bà tự đem tới hình phạt này.”

Họ khiêng xác đến bìa của cao nguyên. Jetsušn ngồi nhập định và đưa tâm thức bà trở lại thân thể.

Rồi ngài dạy họ về cái chết với bài ca này :

Kính lễ thân kim cương –
Tâm thức đã thanh tịnh trong trạng thái của trí huệ,
Hoàn thiện trong tịnh quang của thực tại
Lưu xuất các thân để đem lại sự giúp đỡ không thiên vị cho chúng sanh.

Với móc sắt của tập trung sâu xa
Tôi kéo cái thức đã mất thân
Của người đàn bà già này
Trở lại khỏi lang thang trong trung ấm.

Với đại ấn trí huệ siêu việt của mahamudra
Bây giờ tôi đã đóng dấu nó vào trong thân thể bà,
Và bằng trì tụng những thần chú sâu xa
Tẩy sạch những che ám và tập khí thiên về ác hạnh của nó.

Hãy để việc này là một cảm hứng cho các bạn ;
Hãy tin nghe bài ca của ta :

Sự thay đổi của cuộc đời gọi là cái chết :
Da dẻ biến đổi ; mặt trở thành xanh ;
Mũi khô và ọp ẹp ; răng phủ vàng xỉn.
Mắt lồi lên từ ổ mắt
Nhìn chằm chằm đáng sợ vào mặt những người khác.

Khi sự chấm dứt đến gần, hơi thở trở nên
Hổn hển khò khè trong cổ họng.
Người ta biết tất cả rồi sẽ bị bỏ lại –
Tài sản cất giữ và những người bạn mến thương.

Dầu không muốn, đã đến thời để ra đi.
Không có gì sẽ đi theo
Trừ đức hạnh và tội lỗi.
Thiêu hủy bởi buồn rầu như thế
Những hấp hối của cái chết được cảm nghiệm.

Trong đời này nó được kinh nghiệm chỉ một lần,
Nhưng cái kinh nghiệm đời có một lần này
Không là sự chấm dứt một lần cho tất cả.
Trong những đời sau sẽ lại như thế,
Như vòng quay của một bánh xe quay nước.

Để phá vỡ chu kỳ này,
Hãy đạt đến trạng thái pháp thân.
Như thế an định vào thực tại tự nhiên
Những khốn khó của vô minh
Được chấm dứt, mê mờ không còn.

Họ đứng đó, mắt mở lớn khi một cái cầu vồng chiếu sáng từ thân người đàn bà. Jetsušn lại hát :
Con cầu nguyện đến những lama cha của con.

Người đàn bà già cả ích kỷ này
Lang thang trong trung ấm dẫn đến tái sanh
Được chuyển hóa thành thân thể cầu vồng của bổn tôn
Bằng giai đoạn phát sanh của thừa mật chú sâu xa
Qua những cố gắng của chính Milarepa.

Thức bị tội lỗi đè nặng của bà được kéo lên
Bằng móc sắt của tập trung với ấn,
Vết bẩn che chướng của tội lỗi tức thời được tẩy sạch
Bằng dòng chảy của trì tụng thần chú.

Bà được đặt mặt đối mặt với trạng thái hiện thực
Bằng tinh túy của con đường phương tiện sâu xa của tâm,(23)
Và chuyên chở đến cung điện pháp thân
Trên con ngựa của Đại Ấn.

Nguyện tôi cung cấp sự giúp đỡ tự phát cho chúng sanh
Đến khi nào sanh tử chấm dứt.

Mọi người có mặt ở đó đều tràn ngập cảm xúc và thỉnh cầu Pháp, quán đảnh và những ban phước. Họ cúng dường nhiều thứ, nhưng Mila từ chối, hát rằng :

Trong sở hữu sung túc tiện nghi
Tôi thấy những tài sản thế gian có nhiều rắc rối.
Tôi không muốn chúng – hãy giữ chúng cho các bạn.
Tuy nhiên, qua công đức hồi hướng chúng cho tôi
Những che chướng phiền não và sở tri
Sẽ được thải ra khỏi tâm thức các bạn.

Và sau khi các bạn đi vào trung đạo
Hướng đến giải thoát khỏi sự tạo tác của bốn biên kiến(24)
Qua sự hoàn thành kho công đức và trí huệ,
Nguyện cho các người đạt đến trí toàn giác.

Trong trạng thái của thực tại, mọi sự –
Đức hạnh và tội lỗi – đều như huyễn.
Trong tịnh quang tự giác của pháp thân
Mọi sự đều tan biến hoàn toàn vào bất nhị.

Jetsušn ở lại đó vài ngày, và tất cả mọi người đều mãn nguyện bởi mối liên hệ trong Pháp với ngài.



Nhóm có tiêu đề “Sáu Bài Ca Kim Cương” ghi chép những sự kiện của một hành trình dài ngày của Milarepa và Rechungpa. Nó cung cấp thêm những kiểu mẫu gặp gỡ và đối xử của Mila với dân chúng Tây Tạng. Nó tạo thành một sưu tập nhỏ, độc lập trong Những Câu Chuyện và Bài Ca từ Truyền Thống Khẩu Truyền của Jetsušn Milarepa, với câu nói trong lời mở đầu của vị thí chủ đã chép và in :

Dù “Sáu Bài Ca Kim Cương” là rất thiêng liêng và bí mật, Lhe Tsušnpa Rinchen Namgyel đã vừa cho in chúng chỉ với ý định giúp đỡ những người khác. Mong chư vị lama và chư dakini tha thứ cho tôi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2020(Xem: 7825)
Trong những quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha, Phật Giáo nằm ngay giữa bối cảnh lịch sử Thiên Chúa Giáo. Mối quan hệ giữa hai nền văn hóa tôn giáo – Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo – phủ lên một hình ảnh bao quát: từ chủ nghĩa bài xích nhau đến đối thoại hiệu quả, chuyển qua các cấp độ đa dạng của sự lãnh đạm nhau. Liên quan đến hai truyền thống tâm linh, Ana Maria Schlüter Rodés biểu hiện những gì bà gọi một cách chính xác là “song ngữ tôn giáo.” Trong cuộc phỏng vấn với Daniel Millet Gil từ Buddhistdoor Global được dịch sang Anh ngữ và đăng trên trang mạng www.buddhistdoor.net hôm 27 tháng 2 năm 2020, Ana Maria nói về con đường tâm tinh và thực hành Thiền của bà trong bối cảnh Thiên Chúa Giáo.
13/02/2020(Xem: 10778)
Sau khi Đức Phật thành đạo, ánh sáng giác ngộ của Ngài đã chiếu khắp mọi nơi, hàng vạn người dân Ấn, từ sĩ, nông, công, thương, mọi tầng lớp của xã hội Ấn đều thừa hưởng được kết quả giác ngộ của Ngài. Đến cuối đời của Ngài, Chánh pháp đã có mặt ở khắp Ấn Độ và lan tỏa đến các quốc gia láng giềng. Từ hạ lưu của sông Hằng đi về phía Đông, phía Nam tới bờ sông Caodaveri, phía Tây tới bờ biển Á-rập, phía Bắc tới khu vực Thaiysiro, đâu đâu cũng có sự ảnh hưởng của giáo lý Phật-đà, và người dân nơi ấy sống trong sự hòa bình và hạnh phúc. Trong triều đại của Hoàng Đế Asoka thuộc Vương Triều Maurya (thế kỷ thứ III trước TL), Phật giáo đã bắt đầu truyền bá sang các vùng biên giới của đại lục.
22/01/2020(Xem: 6440)
Cuộc Triển lãm Kinh sách Phật giáo hai nghìn năm tuổi tại Thư viện Anh Quốc, khai trương vào ngày (25 tháng 10 – 23 tháng 02 năm 2020), sẽ khám phá nguồn gốc, triết lý và sự phù hợp đương đại của Phật giáo từ khi bắt đầu phía bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch để có hơn 500 triệu Phật tử trên khắp thế giới ngày nay.
22/01/2020(Xem: 17157)
Đạo Phật và Dòng Sử Việt (sách pdf, tác giả HT Thích Đức Nhuận)
19/01/2020(Xem: 4299)
Vấn đề trên vẫn còn trong vòng tranh cãi về tính lịch sử và tính xác thực của sự kiện. Liệu đây là sự thật lịch sử hay chỉ là dã sử, huyền thoại được các nhà sử học thêm vào 2 bộ sử liệu trong các lần biên tập theo thời gian. Lần đầu tiên, Đức Phật đến Mahinyangana của đảo quốc - nơi tụ lạc Yaksa vào tháng Duruthu (tháng Giêng) ngày rằm (1 B.E hay 528 B.C) sau 9 tháng Ngài thành đạo. Tại đây, Đức Phật đã chiến thắng và quy y cho những yaksa cũng như vua Rồng Maniakkhika từ Kelaniya đến Mahinyangana để diện kiến và quy y theo Phật.
13/01/2020(Xem: 7750)
Danh hiệu "TAM TẠNG" là một danh vị vô cùng cao quí được trao tặng cho các vị tỳ khưu chuyên sâu về Pháp Học được tuyển chọn từ 500.000 chư đại đức tăng thành viên của giáo hội Tăng già trên khắp nước Miến.
13/01/2020(Xem: 3984)
Theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ báo cáo Tự do tôn giáo Quốc tế thường niên 2004, có khoảng 0,2% dân số của nước Cộng hòa Uzbekistan là Phật tử. Đa số là người Hàn Quốc. Chính thức chỉ có một Phật giáo được đăng ký tại Uzbekistan, có một cơ sở tự viện Phật giáo tại Tashkent.
07/01/2020(Xem: 4704)
Chúng ta cùng suy nghĩ về tác động lịch sử của Phật giáo trong mối liên hệ mật thiết với lịch sử Hàn Quốc. Cũng như các quốc gia châu Âu, có thể được xem như là sản phẩm của các truyền thống Do Thái giáo, Kitô giáo; Đông Á có thể được xem như là Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Nó đã được nói lên rằng, bất kể sắc tộc tôn giáo chính thức của họ, tất cả người Hàn Quốc (và có lẽ tất cả người Đông Á) đều ảnh hưởng truyền thống Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Nhưng nó sẽ chính xác hơn với quốc gia mà tất cả người Hàn Quốc, cho dù họ thừa nhận hay không thừa nhận mình là phật tử.
07/01/2020(Xem: 4031)
Sinh nhật vào ngày 16 tháng 05 năm 1971, Hiệp hội Sinh viên Phật tử Indonesia (Himpunan Mahasiswa Buddhis Indonesia) được liệt kê là Tổ chức Sinh viên Phật tử lâu đời nhất tại Indonesia nếu tính từ giữa thế kỷ 20. Hiệp hội Sinh viên Phật tử Indonesia (Himpunan Mahasiswa Buddhis Indonesia) là một tổ chức Sinh viên Phật hoạt động tử ngoài trường trong lĩnh vực Xã hội & Quốc tịch dựa trên tinh thần đạo đức và tinh thần bất bạo động của Phật giáo. Là một tổ chức độc lập, Hiệp hội Sinh viên Phật tử Indonesia (Himpunan Mahasiswa Buddhis Indonesia) chưa từng bao giờ liên kết với bất kỳ tổ chức chính trị hoặc đảng phái nào. Vì vậy, trong các hoạt động và hành động của mình, tổ chức Sinh viên Phật tử này không thể bị can thiệp bởi bất kỳ bên nào.
07/01/2020(Xem: 3886)
Hằng năm, các nhà lãnh đạo Phật giáo ở Los Angeles, Hoa Kỳ, nhiều người trong số họ sẽ không bao giờ gặp nhau ở châu Á, vì đã cùng nhau tham dự Đại lễ Vesak, kỷ niệm ngày Phật Đản. Trong khi nghi thức Tắm Phật bằng các loại nước hoa thơm, được quan sát chủ yếu bởi những người Phật tử ở Đông Á, thì chư tôn tịnh đức tăng già và các Phật tử Phật giáo Nguyên Thủy từ Nam Á về Los Angeles, Hoa Kỳ tham dự với niềm tôn kính, mỗi người đều dùng nước hoa thơm Tắm Phật. Chư tôn tinh đức tăng già đều là thành viên của Hội đồng Tăng thân Phật giáo Nam California, Hoa Kỳ. Một hội đồng Tăng già Phật giáo như vậy là một cái gì đó tương đối mới trong lịch sử lâu dài của Phật giáo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]