Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Bài ca cho các thí chủ nghèo

09/01/201106:16(Xem: 4651)
2. Bài ca cho các thí chủ nghèo

2

Bài ca cho các thí chủ nghèo


Một lần, khi Jetsušn ở tại Núi Khối Đỏ, một thí chủ tên là Vận May đến gặp ngài. Sau khi lễ chào Mila, ông nói : “Hỡi Cha, Jetsušn quý báu, ngài đã sống trong những chốn ẩn cư núi non hoang vắng mà không hối tiếc gì. Giờ đây, khi đêm ngày dấn thân vào sự triển khai sức mạnh tâm linh sâu xa để đem lại thịnh vượng và hạnh phúc cho chúng sanh, xin ngài hãy ngó đến chúng tôi, những người dân Thung Lũng Dam, với lòng đại bi. Chúng tôi nghèo nàn niềm tin và không có cơ hội thực hành. Chúng tôi đã hoàn toàn đi vào trong những công việc của cuộc đời này. Chúng tôi nghèo túng đến nỗi không đủ bột để làm lễ dâng cúng torma. Xin ngài hãy hướng sức mạnh tâm linh sâu xa nhắm vào chúng tôi, và dù chúng tôi không có cách nào cúng dường thích hợp, xin hãy nói cho chúng tôi một thời Pháp để gieo hạt giống giải thoát qua cái thấy bi mẫn của ngài.”

Jetsušn bèn dạy họ Pháp về tương quan nhân quả của hành động và sau đó hát bài ca này :

Con cầu nguyện dịch giả nổi danh
Tên là Marpa Lotsawa
Con người tuyệt vời họ Lhodrag
Với năng lực quý báu nói hai thứ tiếng.

Tôi, Milarepa, được nuôi dưỡng tốt đẹp
Do lòng tốt của lama thiêng liêng của tôi,
Không biết gì nhiều về những chuyện đời ;
Nhưng khi tôi ở trong núi non vắng hẳn bóng người –
Không góp nhặt thức ăn và sự sung túc –
Những thí chủ, đàn ông và đàn bà sùng tín,
Tụ tập lại như một đàn ong
Trên đóa hoa sen thơm ngát ngọt ngào.

Mọi thứ đó là do lòng tốt vị lama của tôi –
Xin ban cho con ân phước thường trực của ngài.

Tôi, Mila của những chốn ẩn cư trên núi,
Không đi vào công chuyện hay bán buôn ;
Nhưng khi tôi sống trong núi non hoang vắng,
Không nhờ vào của bố thí để sống còn,
Những thí chủ, đàn ông và đàn bà sùng tín,
Đem cho tôi đồ ăn thức uống ngon lành.

Mọi thứ đó là do lòng tốt vị lama của tôi.
Con dâng cúng lòng tôn kính để trả ơn lòng tốt ấy –
Xin ban cho con ân phước thường trực của ngài.

Tôi, Mila của những chốn ẩn cư trên núi,
Không nương dựa vào thức ăn của những lễ cúng
Hay vào những tinh chất của những viên thuốc của thiền giả ;(12)
Nhưng khi tôi trong những chốn ẩn cư núi non hoang vắng
Những thí chủ, đàn ông và đàn bà sùng tín,
Cung cấp cho tôi thức uống cao lương mỹ vị.

Mọi thứ đó là do lòng tốt vị lama của tôi.
Con dâng cúng lòng tôn kính để trả ơn lòng tốt ấy –
Xin ban cho con ân phước thường trực của ngài.

Tôi, thiền giả repa của núi non,
Không muốn áo quần lụa mềm xinh tốt
Do lòng ham thích sự hào nhoáng hay đẹp đẽ ;
Nhưng khi tôi sống trong núi non vắng hẳn bóng người
Những thí chủ, đàn ông và đàn bà sùng tín,
Cung cấp cho tôi những áo dài bằng len bền chắc.

Mọi thứ đó là do lòng tốt vị lama của tôi.
Con dâng cúng lòng tôn kính để đáp đền lòng tốt ấy –
Xin ban cho con ân phước thường trực của ngài.

Đây là tất cả những thứ bên ngoài,
Bây giờ tôi sẽ nói câu chuyện bên trong của tôi :

Khi tôi thực hành như đã được chỉ dạy
Bởi lama chân thật và thiêng liêng của tôi,
Dâng cúng ngài thân, khẩu và ý,
Những ân phước và thành tựu rơi xuống như mưa,
Và hơi ấm phúc lạc của kinh nghiệm nóng rực trong thân.
Đây là cách tốt nhất để phụng sự một nhà cai trị –
Tôi đã bỏ mọi nhà cai trị thế gian lại đàng sau.

Khi tôi lưu tâm đến những việc gần cạnh
Và gánh vác gánh nặng của khổ hạnh,
Những việc thế gian hoàn toàn bị quên lãng.
Sự ảnh hưởng trực tiếp như vậy vào bốn đại
Và sự bổ dưỡng bằng thức ăn của định
Là cái tốt nhất trong mọi phương tiện dinh dưỡng –
Tôi đã bỏ thức ăn và đồ uống thế gian lại đàng sau.

Khi tôi uống dòng suối của giác ngộ,
Hay nước xanh mát của thác núi ;
Đó là quyền sở hữu không người nào khác có,
Trà và bia đậm cả hai đều bị bỏ đi.
Sự làm dịu khổ đau của phiền não như vậy
Là cách tốt nhất để giải khát –
Tôi đã bỏ trà và bia lại đàng sau.

Khi tôi phát triển khí, kinh mạch v.v...
Chỉ mặc một áo vải dài của những repa,
Áo quần sang trọng, lụa là trưởng giả,
Và đồ len mềm đẹp đều bị bỏ đi.
Cái lạc nóng cháy ấy của tummo
Là cách tốt nhất để mặc y phục –
Tôi đã bỏ áo quần lụa đẹp ở lại đàng sau.

Khi tôi làm nhà tôi trong hang núi,
Những tòa nhà và ngoại ô lộn xộn
Của quê hương đã bị bỏ đi.
Một ngôi nhà tốt đẹp của định như thế
Và quê nhà của tâm an trụ
Là cách tốt nhất để trú ngụ –
Tôi đã bỏ quê hương và nhà đẹp ở lại đàng sau.

Khi tôi vun bồi tình bạn với trí huệ,
Tôi bỏ đi những vấn đề
Của một gã đàn ông luôn luôn rắc rối.
Sự phối hợp như vậy giữa phương tiện và trí huệ
Đặt nền vững chắc trên từ bi
Là loại tốt nhất của kết hợp lứa đôi –
Tôi đã bỏ những vấn đề của hôn nhân ở lại đàng sau.

Khi tôi nuôi dưỡng đứa con của tịnh quang,
Tôi bỏ đi những phàn nàn của những đứa con không thân thiện
Chúng ngược lại với sự chăm sóc thương yêu
Là điều rắc rối chính của cha mẹ chúng lúc tuổi già.
Mối tương quan đó giữa thực tại mẹ và con
Được đặt an nghỉ trong cái nôi của trạng thái bổn nhiên.
Là cách tốt nhất để nuôi dưỡng con ruột –
Tôi đã bỏ sự bất hạnh về những đứa con thân yêu lại đàng sau.

Khi tôi dựa vào bảy kho tàng cao cả(13)
Tôi bỏ đi ưa thích, ghét bỏ và xung đột
Những thứ làm nên sự sung túc trói buộc vào sanh tử.
Còn sự sung túc này của sự thấu hiểu mọi pháp là như huyễn
Và của sự biết đủ
Là cách tốt nhất để gom góp kho tàng –
Tôi đã bỏ mọi sung túc thế gian lại đàng sau.

Khi tôi hàng phục kẻ thù chấp ngã
Và gắn bó với sự khiêm nhường,
Tôi bỏ đi đất đai cho ba độc sanh ra.
Sự giải thoát khỏi những phiền não thù nghịch
Qua sự thấu hiểu rằng mọi chúng sanh là cha mẹ
Là cách tốt nhất để thuần hóa những kẻ thù –
Tôi đã bỏ sự chiến đấu với địch thủ thuộc thế gian lại đàng sau.

Khi tôi hối thúc người ta tiến đến mục đích là thực tại,
Tôi đọc con đường sáu siêu việt
Và hướng dẫn với bốn phương tiện xã hội
Đó là những thân thuộc đã từ ái nuôi nấng tôi
Khắp hết không gian của sanh tử.
Đây là mối tương quan thân thuộc tốt nhất –
Tôi đã bỏ những tương quan thân thuộc thế gian lại đàng sau.

Khi tôi làm việc cho sự tự do của tất cả chúng sanh, những bà mẹ của chúng ta,
Với ý định tốt đẹp của tâm Bồ đề,
Công việc đa dạng ấy cho lợi lạc của chúng sanh
Bằng cách chỉ bày cho họ những cấp bậc của các thừa
Hợp với nhu cầu tâm linh của từng người
Là cái tốt nhất trong mọi loại tình bạn –
Tôi đã bỏ những tình bạn thế gian lại đàng sau.

Đó là câu chuyện bên trong của tôi,
Giờ tôi sẽ kể câu chuyện bí mật của tôi :

Mặc dù sự giác ngộ về thực tại
Trong đó không có ta không có người,
Không nhị nguyên, không phân chia – không hình tướng
Nhưng không phải trống không,
Cũng chẳng phải không phải trống không,
Rốt ráo không có mảy may người nhận biết.
Eh ma ! Cho đến khi một thiền giả núi non
Thấu rõ suốt ý nghĩa của điều này,
Nó chớ làm hư hoại nhân quả !

Mong rằng các bạn thí chủ, đàn ông đàn bà tụ tập nơi đây,
Có may mắn sống lâu, không bệnh tật,
Với sự thọ hưởng nguồn an lạc miên trường.

Mong các bạn có cái may mắn Pháp thân mặc dù cái chết,
Và cái may mắn chứng ngộ Thân Phật trong thân các bạn,
Lời Phật trong lời các bạn.
Và Tâm Phật trong tâm các bạn.
Mong rằng các bạn có cái may mắn của ba thân
Tự nhiên thành tựu với thân, khẩu và ý.
Hát lên bài ca tốt lành về kinh nghiệm này,
Trong chốn ẩn cư núi non tốt lành này,
Hãy chiêm ngưỡng Cái May Mắn Tốt Lành, vô số dakini.
Tụ hội tốt lành nơi đây
Và đám đông những người may mắn
Tôn vinh họ bằng bài ca tốt lành.

Tràn ngập bởi xúc cảm mạnh mẽ, những thí chủ phục vụ ngài và cầu xin ngài ở lại. Bài ca này thuộc vào nhóm đầu tiên những bài ca được hát khi ngài ở Núi Khối Đỏ.

uongdongsuoinui-05


Một nữ thí chủ trẻ cúng dường bơ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2020(Xem: 7938)
Trong những quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha, Phật Giáo nằm ngay giữa bối cảnh lịch sử Thiên Chúa Giáo. Mối quan hệ giữa hai nền văn hóa tôn giáo – Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo – phủ lên một hình ảnh bao quát: từ chủ nghĩa bài xích nhau đến đối thoại hiệu quả, chuyển qua các cấp độ đa dạng của sự lãnh đạm nhau. Liên quan đến hai truyền thống tâm linh, Ana Maria Schlüter Rodés biểu hiện những gì bà gọi một cách chính xác là “song ngữ tôn giáo.” Trong cuộc phỏng vấn với Daniel Millet Gil từ Buddhistdoor Global được dịch sang Anh ngữ và đăng trên trang mạng www.buddhistdoor.net hôm 27 tháng 2 năm 2020, Ana Maria nói về con đường tâm tinh và thực hành Thiền của bà trong bối cảnh Thiên Chúa Giáo.
13/02/2020(Xem: 10972)
Sau khi Đức Phật thành đạo, ánh sáng giác ngộ của Ngài đã chiếu khắp mọi nơi, hàng vạn người dân Ấn, từ sĩ, nông, công, thương, mọi tầng lớp của xã hội Ấn đều thừa hưởng được kết quả giác ngộ của Ngài. Đến cuối đời của Ngài, Chánh pháp đã có mặt ở khắp Ấn Độ và lan tỏa đến các quốc gia láng giềng. Từ hạ lưu của sông Hằng đi về phía Đông, phía Nam tới bờ sông Caodaveri, phía Tây tới bờ biển Á-rập, phía Bắc tới khu vực Thaiysiro, đâu đâu cũng có sự ảnh hưởng của giáo lý Phật-đà, và người dân nơi ấy sống trong sự hòa bình và hạnh phúc. Trong triều đại của Hoàng Đế Asoka thuộc Vương Triều Maurya (thế kỷ thứ III trước TL), Phật giáo đã bắt đầu truyền bá sang các vùng biên giới của đại lục.
22/01/2020(Xem: 6594)
Cuộc Triển lãm Kinh sách Phật giáo hai nghìn năm tuổi tại Thư viện Anh Quốc, khai trương vào ngày (25 tháng 10 – 23 tháng 02 năm 2020), sẽ khám phá nguồn gốc, triết lý và sự phù hợp đương đại của Phật giáo từ khi bắt đầu phía bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch để có hơn 500 triệu Phật tử trên khắp thế giới ngày nay.
22/01/2020(Xem: 17482)
Đạo Phật và Dòng Sử Việt (sách pdf, tác giả HT Thích Đức Nhuận)
19/01/2020(Xem: 4397)
Vấn đề trên vẫn còn trong vòng tranh cãi về tính lịch sử và tính xác thực của sự kiện. Liệu đây là sự thật lịch sử hay chỉ là dã sử, huyền thoại được các nhà sử học thêm vào 2 bộ sử liệu trong các lần biên tập theo thời gian. Lần đầu tiên, Đức Phật đến Mahinyangana của đảo quốc - nơi tụ lạc Yaksa vào tháng Duruthu (tháng Giêng) ngày rằm (1 B.E hay 528 B.C) sau 9 tháng Ngài thành đạo. Tại đây, Đức Phật đã chiến thắng và quy y cho những yaksa cũng như vua Rồng Maniakkhika từ Kelaniya đến Mahinyangana để diện kiến và quy y theo Phật.
13/01/2020(Xem: 7820)
Danh hiệu "TAM TẠNG" là một danh vị vô cùng cao quí được trao tặng cho các vị tỳ khưu chuyên sâu về Pháp Học được tuyển chọn từ 500.000 chư đại đức tăng thành viên của giáo hội Tăng già trên khắp nước Miến.
13/01/2020(Xem: 4095)
Theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ báo cáo Tự do tôn giáo Quốc tế thường niên 2004, có khoảng 0,2% dân số của nước Cộng hòa Uzbekistan là Phật tử. Đa số là người Hàn Quốc. Chính thức chỉ có một Phật giáo được đăng ký tại Uzbekistan, có một cơ sở tự viện Phật giáo tại Tashkent.
07/01/2020(Xem: 4835)
Chúng ta cùng suy nghĩ về tác động lịch sử của Phật giáo trong mối liên hệ mật thiết với lịch sử Hàn Quốc. Cũng như các quốc gia châu Âu, có thể được xem như là sản phẩm của các truyền thống Do Thái giáo, Kitô giáo; Đông Á có thể được xem như là Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Nó đã được nói lên rằng, bất kể sắc tộc tôn giáo chính thức của họ, tất cả người Hàn Quốc (và có lẽ tất cả người Đông Á) đều ảnh hưởng truyền thống Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Nhưng nó sẽ chính xác hơn với quốc gia mà tất cả người Hàn Quốc, cho dù họ thừa nhận hay không thừa nhận mình là phật tử.
07/01/2020(Xem: 4139)
Sinh nhật vào ngày 16 tháng 05 năm 1971, Hiệp hội Sinh viên Phật tử Indonesia (Himpunan Mahasiswa Buddhis Indonesia) được liệt kê là Tổ chức Sinh viên Phật tử lâu đời nhất tại Indonesia nếu tính từ giữa thế kỷ 20. Hiệp hội Sinh viên Phật tử Indonesia (Himpunan Mahasiswa Buddhis Indonesia) là một tổ chức Sinh viên Phật hoạt động tử ngoài trường trong lĩnh vực Xã hội & Quốc tịch dựa trên tinh thần đạo đức và tinh thần bất bạo động của Phật giáo. Là một tổ chức độc lập, Hiệp hội Sinh viên Phật tử Indonesia (Himpunan Mahasiswa Buddhis Indonesia) chưa từng bao giờ liên kết với bất kỳ tổ chức chính trị hoặc đảng phái nào. Vì vậy, trong các hoạt động và hành động của mình, tổ chức Sinh viên Phật tử này không thể bị can thiệp bởi bất kỳ bên nào.
07/01/2020(Xem: 3936)
Hằng năm, các nhà lãnh đạo Phật giáo ở Los Angeles, Hoa Kỳ, nhiều người trong số họ sẽ không bao giờ gặp nhau ở châu Á, vì đã cùng nhau tham dự Đại lễ Vesak, kỷ niệm ngày Phật Đản. Trong khi nghi thức Tắm Phật bằng các loại nước hoa thơm, được quan sát chủ yếu bởi những người Phật tử ở Đông Á, thì chư tôn tịnh đức tăng già và các Phật tử Phật giáo Nguyên Thủy từ Nam Á về Los Angeles, Hoa Kỳ tham dự với niềm tôn kính, mỗi người đều dùng nước hoa thơm Tắm Phật. Chư tôn tinh đức tăng già đều là thành viên của Hội đồng Tăng thân Phật giáo Nam California, Hoa Kỳ. Một hội đồng Tăng già Phật giáo như vậy là một cái gì đó tương đối mới trong lịch sử lâu dài của Phật giáo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]