Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

9. Sự gặp gỡ của Mila với Dampa Sangye

09/01/201106:22(Xem: 4528)
9. Sự gặp gỡ của Mila với Dampa Sangye

9

Sự gặp gỡ của Mila với Dampa Sangye


Một lần, đạo sư Ấn Độ Phadampa Sangye nghĩ rằng, “Milarepa này của Tây Tạng được nói là một thành tựu giả hạng nhất. Ta phải gặp ông ta ít nhất một lần.” Rồi ngài bay từ Ấn Độ vào lúc rạng đông và đến đỉnh Đèo Thongla xứ Nyanang khi những tia mặt trời đầu tiên lộ sáng. Nơi đó, ngài hóa hiện thành nhiều hình tướng đạo sư giống như ngài và ngồi ở giữa họ.
Khi ấy Mila đi từ miền dưới của bình nguyên Dingri cùng với một vài người lái buôn, gặp ngài ở trên đỉnh đèo. Nhận ra Dampa là người với thái độ khiêm hạ giữa các đạo sư, Jetsušn cung kính đảnh lễ.

Vị đạo sư nói : “Ở đây không có ai thấp hơn tôi. Chớ có tôn kính tôi một cách vô nghĩa. Chắc ông đã điên rồi, thiền giả.”

Mila trả lời bằng bài ca :

Con cầu nguyện lama toàn giác của con –
Xin ban cho con ân phước.

Thiền giả Ấn Độ, xin ngài hãy nghe :
Khổ sở bởi ma vô minh
Hầu hết chúng sanh trong sáu nẻo đều điên.
Đã chứng ngộ các hình tướng đều như huyễn
Đặc biệt Milarepa cũng điên.
Với sự thấu biết siêu nhiên tâm người khác
Vị cha già Marpa Lotsawa là điên.
Với sự can đảm trong khó nhọc vì chánh pháp
Sư ông, đại học giả Naropa, là điên.
Với những năng lực chuyển hóa không thể nghĩ bàn
Sư cố Tilo Sherab Sangbo là điên.

Luôn luôn ban cho cái lạc tự nhiên
Vajrayogini cũng điên.
Được ôm ấp trong sự kết hợp không bợn nhơ của đại lạc,
Nguyên tổ của dòng, Vajradhara là điên.

Thử tự che dấu mình với tôi
Hỡi Dampa tôn kính – ngài cũng điên nốt !
Cha ngài điên, con ngài điên, ông ngài điên !
Ngài điên, tôi điên, mọi người đều điên !

Một số người điên vì hành động vô minh.
Một số người điên vì dòng sông tham ái.
Một số người điên vì sân hận.
Một số người điên vì sương mù si mê.
Một số người điên vì thuốc độc kiêu hãnh.

Ngài điên do biết được tâm người khác,
Tôi điên do thấu suốt trạng thái bổn nhiên.

Ngài điên bởi chứng đắc chủng tử tự.
Tôi điên bởi chứng đắc vô sanh.

Ngài điên bởi sự thực hành làm cho an bình.
Tôi điên bởi kinh nghiệm Đại Ấn.

Bài ca của sự gặp gỡ của những người điên này
Là tiếng vang trống không của Đại Ấn.

Bấy giờ Dampa hiện thân thật của ngài và nói : “Ông đã hát lên mọi Pháp và giáo huấn bí mật thành bài ca ! Ông thuyết Pháp sâu xa ở nơi chợ búa ! Hơn nữa, thái độ của ông là tùy tiện và điên rồ ! Ông sẽ làm gì khi những dakini gởi tới sự phán xét của họ ?”

Mila bèn hát :

Đến lama, thần bổn tôn, và những dakini
Con cầu nguyện – hãy ban cho con ân phước.

Trong sư tử to lớn của tâm vô hạn
Ba cái thiện xảo không sợ hãi đều đầy đủ,
Và nó ngủ trong tuyết không làm tan tuyết.
Hãy để cho cái chết đến với người nắm giữ cái thấy này –
Khi tôi chết, tôi hoan hỷ trong cái chết ;
Khi cái chết đến, tôi sẽ chết một cách phúc lạc.

Tâm tôi là một con kên kên không có hy vọng hay sợ hãi
Nó dương đôi cánh của phương tiện và trí huệ hợp nhất
Và ngủ trên ngọn núi của thực tại bổn nhiên.
Hãy để cho cái chết đến với người thiền giả này –
Khi tôi chết, tôi hoan hỷ trong cái chết ;
Khi cái chết đến, tôi sẽ đến trong lạc phúc.

Tôi là một con cọp trẻ thoát khỏi lấy hay bỏ,
Mỉm nụ cười của không hoạt động,
Ngủ thoải mái trong rừng của trí huệ rốt ráo.
Hãy để cho cái chết đến với hành giả này –
Khi tôi chết, tôi hoan hỷ trong cái chết ;
Khi cái chết đến, tôi sẽ đến trong lạc phúc.

Tôi là một con cá nhỏ của cái biết trạng thái bổn nhiên
Bơi lội nơi chiều sâu của đại dương thực tại,
An trụ trong trạng thái bất biến của pháp thân.
Hãy để cho cái chết đến với người sở hữu những kết quả này –
Khi tôi chết, tôi hoan hỷ trong cái chết ;
Khi cái chết đến, tôi sẽ đến trong lạc phúc.

Bên phải tôi những chiến sĩ đứng như sư tử,
Bên trái tôi những nữ anh hùng nhảy múa.
Những hộ pháp chờ đợi phía trước tôi như những người giúp việc,
Và những hành giả theo tôi như những con chó.

Dòng Phái của Thế Giới(17) uốn vòng bên trên như một mái vòm,
Và dưới nó, những dakini bay lượn như mây.
Một thiền giả repa như thế
Không sợ gì sự chuyển đến lời phán xét.

Dampa tự nghĩ, “Quả thật, ông ta đã có sự tự tin lớn lao của cái thấy – nhưng thần lực của ông ta thì sao ?” Bởi thế để thử nghiệm ngài, Dampa Sangye biến thành nhiều hóa thân ngồi trên mỗi viên nhỏ của đống phân thú vật. Nhưng Jetsušn cũng tự hóa ra nhiều thành mỗi Milarepa trên đầu mỗi cọng cỏ. Ngạc nhiên Dampa nói, “Những thần lực của ngài thật đúng như ngài đã nêu ra trong bài ca của ngài ! Bây giờ chúng ta, hai thành tựu giả của Ấn Độ và Tây Tạng đã gặp nhau, chúng ta nên ăn mừng sự hòa hợp của chúng ta bằng một bữa tiệc. Ngài muốn rút ra nước hay làm ra lửa ?”

Jetsušn trả lời, “Tôi sẽ rút ra nước.” Ngài đi đến một con suối và vốc nước xanh đặc như thạch vào một cái túi. Khi trở lại, Dampa nói, “Nước này không đủ cho chúng ta, hai thành tựu giả. Chúng ta phải dâng cúng phần đầu tiên của bữa tiệc cho những chiến sĩ và dakini, rồi phần còn lại cho tất cả các vị thầy và thương gia tụ hội ở đây.”

Mila trả lời, “Hãy đốt lửa lên.”

Dampa bèn làm bật lên ngọn lửa trong đống đá trên đỉnh đèo. Jetsušn nói, “Chúng ta cần một cái nồi.” Dampa tạo ra một cái tô sọ người từ nách mình, và khi để nó trên lửa, nó lớn ra thành một kích thước khổng lồ. Jetsušn rút nước từ không khí và rót đầy cái tô sọ người. Rồi ngài khuấy nó và không cần thêm vào gì cả nó biến thành đầy những thức ăn. Đặt nó trước mặt Dampa ngài cúng phần thứ nhất của bữa tiệc cho những dakini và chia phần còn lại đều cho các vị thầy và những thương gia. Có một phần còn lại. Jetsušn nói, “Tôi nên cúng phần này cho ai ?” Từ trời cao, những dakini trả lời :

Tam Bảo và những hộ pháp vui lòng với sự phục vụ của ngài,
Mẹ và những dakini thỏa thích với bữa tiệc của ngài,
Dampa Sangye bằng lòng với đồ cúng của ngài,
Những người tụ hội nơi đây đã nhận được phần của họ –
Hãy lấy nó cho ngài, thiền giả repa.

Hát như thế, những dakini sửa soạn những món dâng cúng kỳ diệu và cử hành bữa tiệc. Họ trình diễn những bài ca kim cương và âm nhạc, và hoa mưa xuống từ trời. Mọi người hiện diện đều ngạc nhiên và nhận được những ân phước rất lớn lao. Vào lúc chấm dứt lễ tiệc vòng tròn này, tất cả những tâm thức hòa trong một sự thông cảm sâu xa. Họ bàn nhiều về Pháp, sau đó Jetsušn hát :

Con lạy dưới chân lama thiện xảo của con.

Vị Dampa Sangye người Ấn Độ này
Đến Thongla, Nyanang, xứ Tây Tạng.
Thiền giả Mila cũng đến
Để nhìn thấy mặt của con người vĩ đại này.
Chúng tôi đã phô diễn những thần lực kỳ diệu,
Và cử hành lẽ tiệc thiêng liêng.
Chúng tôi được tôn vinh theo nhiều cách bởi những dakini –
Một trận mưa hoa từ bầu trời
Và âm thanh du dương của âm nhạc lừng vang.

Chúng tôi đã chuyện vãn nhiều về Pháp,
Tâm chúng tôi hòa hợp trong những chiều sâu của thực tại.
Tất cả các bạn ở đây đã được ban cho nhiều lợi lạc.

Một con đại bàng non của tâm thức nền tảng,
Tôi sải đôi cánh của phương tiện và trí huệ hợp nhất
Và bay vào bầu trời mênh mông của thực tại.
Với đôi mắt dò tìm tôi nhìn khắp mọi hướng –
Tôi thấy vực thẳm của ba cõi thấp
Và ánh sáng mặt trời mặt trăng mờ nhạt của các cõi cao.
Tôi thấy những đám mây tụ hội của hành động tốt và xấu.
Và mặt trời mặt trăng lên xuống của sanh và tử.
Tôi thấy bầu trời của thực tại hiện tiền
Tôi thấy thế giới hình tướng như là mộng huyễn.
Tôi thấy cái Tuyệt Đối không thể diễn tả, không thể nghĩ bàn.

Eh ma ! Hiện tượng của sanh tử hình tướng
Không hiện hữu – mà xuất hiện ! Lạ lùng thay !

Dampa nói : “Dòng pháp của ta như một ngọn lửa – một khi cháy lên nó sẽ cháy hết. Còn của ngài như một dòng sông – nó sẽ chảy dài dài. Bây giờ tôi không cần ngài và ngài cũng không cần tôi.”

Lúc đó cả hai bay lên trời, đi theo con đường riêng của họ như những con kên kên bay tán loạn từ một xác chết.


uongdongsuoinui-06



Mila với cây gậy sừng


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 5563)
Sự tín ngưỡng Phật giáo tại Ðài Loan bắt nguồn từ những di dân hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Ðông vào thời Minh – Thanh. Nhưng vào thời kỳ đầu này Phật giáo chỉ chú trọng đến việc cầu phước, tiêu tai, sự tu tập chủ yếu là của các cá nhân đơn lẻ, chứ chưa có những hoạt động mang tính Tăng đoàn ở qui mô lớn.
10/04/2013(Xem: 5101)
Một hiện tượng không bình thường đang dần phát triển trong giới Phật giáo Đài Loan, đó là việc ni giới Đài Loan mấy năm gần đây vận động huỷ bỏ “Bát Kỉnh Pháp”. Hiện tượng này do sư cô Thích Chiếu Huệ khởi xướng và ngày càng lan rộng, nhận định về hiện tượng này và tìm hiểu nguyên nhân mà nó phát sinh cần có cái nhìn toàn diện về xã hội và Phật giáo Đài Loan.
10/04/2013(Xem: 5685)
Từ ngày 18-27/05/2002, nhà lãnh đạo của Phật giáo Tây Tạng, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, sẽ viếng thăm các tiểu bang Canberra, NSW và Victoria. Ðây là chuyến viếng thăm Úc lần thứ 4 kể từ năm 1996 của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, chuyến viếng thăm của Ngài sẽ bắt đầu từ ngày 18, và kết thúc vào ngày 27 tháng 05 năm 2002. Các sự kiện chính sẽ được diễn ra tại bốn thành phố: Melbourne, Geelong, Canberra và Sydney.
10/04/2013(Xem: 5014)
Theo tin đài VOA, ngày 8/1/2002, đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố tại tỉnh Sanarth, Bắc Ấn, ngày nào mà Tây Tạng còn chưa được giải phóng, Ngài sẽ tái sinh vào những nơi đất nước tự do.
10/04/2013(Xem: 4541)
Các con số thống kê chính thức của viện Thống Kê Úc Đại Lợi cho thấy rằng trong 5 năm vừa qua, những người dân Úc Đại Lợi không tin vào Thượng Đế (vô tôn giáo) đã giảm đi. Điều không thể chối cãi là các tín đồ Ki-Tô tiếp tục giảm sút nhiều hơn đối với đạo Anh Cát Giáo và đạo Nhà Thờ Hợp Nhất (Uniting Church), còn đạo Thiên Chúa La Mã bị giảm tượng đối ít hơn. Trong khi đó số người tự coi là vô thần giảm đi hơn là con số của năm năm về truớc. Vào năm 2001 chỉ có hơn 15% dân số bị xếp loại vô tôn giáo, so với 16.5% vào năm 1996. Các tôn giáo có tín đồ gia tăng là đạo Hồi và đạo Ấn, vì lý do di dân.
10/04/2013(Xem: 5076)
Kênh truyền hình Địa Dư Quốc Gia (National Geographic Channel) đã cho trình chiếu trong tháng 5/2002 vừa qua một loạt phóng sự (Mummy Road Show) về các xác ướp cận đại còn giữ gìn đuợc tốt. Chương trình nghiên cứu này do hai chuyên gia về xác ướp là ông Jerry Conlogue và Ron Beckett thực hiện.
10/04/2013(Xem: 4992)
Tin 1 triệu người thuộc giai cấp cùng đinh của Ấn Độ từ bỏ Ấn giáo, quy y Tam Bảo tại viện Ambedkar, thủ đô Delhi Ấn Độ, đã tạo ra cơn sửng sốt cho các đảng lãnh đạo Ấn giáo của chính phủ Ấn Độ và gây chấn động khắp thế giới. Thanh Tâm đã phỏng vấn đại đức Thích Nhật Từ, tu sĩ Việt Nam duy nhất tham dự đại lễ quy y này.
10/04/2013(Xem: 5402)
Để hiểu rõ thêm về vai trò lịch sử trọng đại của Hoàng Đế Asoka không những đối với dân-tộc A?, mà còn đối với nhân loại qua sự truyền bá Phật giáo đến các nước khác, ta nên ôn lại đôi chút về bối cảnh lịch sử A? độ đương thời.
10/04/2013(Xem: 4963)
Hiện nay có khá nhiều bản dịch ra Anh ngữ về những Pháp dụ của Vua Asoka vốn được viết bằng tiếng Brahmi (Prakrit). Bản dịch Việt ngữ này đã dựa vào 2 bản Anh ngữ phổ thông nhất và được nhìn dưới 2 góc độ tiêu biểu: 1). Giới hàn lâm, của các tác giả Nayarayanrao Appurao Nikam và Richard McKeon thuộc Viện Đại học Chicago, ấn hành năm 1959 (Viết tắt "Bản Nikam") và 2).
10/04/2013(Xem: 4853)
Trung Quốc trải qua 10 năm đại nạn "đại cách mạng văn hóa", Phật giáo đứng mũi chịu sào, tự viện bị chiếm, Phật tượng bị đập phá, tăng ni bị trục xuất khỏi chùa. Cho đến vào khoảng thập niên 70, nhà nước thực hành cải cách đổi mới, bắt đầu toàn diện quán triệt thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự viện lần lượt khôi phục sinh hoạt tôn giáo, tăng ni xuất gia càng ngày càng đông, nhưng tăng tài của Phật giáo lại quá hiếm hoi, không đủ người kế tục sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, tiếp dẫn hậu lai, làm sao có thể thay đổi được vận mệnh của Phật giáo ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]