Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

8. Sự bối rối của Rechungpa

09/01/201106:21(Xem: 4517)
8. Sự bối rối của Rechungpa

8

Sự bối rối của Rechungpa


Một buổi sáng khi Jetsušn Milarepa và “con” của ngài là Rechungpa đang ở trong động Núi Khối Đỏ, Rechungpa đến gần ngài. Sau khi đảnh lễ nhiều lần, ông quỳ gối chắp tay và nói :

Con tán thán hiện thân của Jetsušn :
Thân thể trần truồng mà sáng chói,
Lời nói hiện bày âm thanh kim cương ngọt ngào không dứt,
Tâm chìm trong cảnh giới thanh tịnh của thực tại.

Con, Rechungpa Dorje Drak,
Sinh trong đồng bằng Gungthang thượng
Có được thân người do phước đức đã gom
Và gặp ngài, bậc cứu độ vinh quang của chúng sanh.

Được dẫn dắt bởi lòng từ bi bao la của Thầy
Con bắt đầu đi vào giáo pháp của con đường sâu xa.
Đặc biệt, con nỗ lực trong giáo lý tummo,
Và khi kinh nghiệm và chứng ngộ ban sơ khởi lên,
Thầy đã phát hiện cho con cái tối hậu.
Niềm tin vào cái thấy đã sinh ra ở bên trong,
Và con có được đức tin không lay chuyển.

Jetsušn, rồi Thầy đã nói với con,
“Mọi kinh nghiệm như huyễn xảy ra
Đều là những tạo tác huyễn hóa của tâm.
Hãy đi đến trạng thái thực tại bổn nhiên.”

Đã xảy như thế này :

Con lạc khỏi tỉnh giác trong sáng tự nhiên
Và rơi vào sự xáo động của những ảo tưởng tâm thức.

Đôi khi những ảo giác thuộc đất xảy ra :
Trong khi những biến cố khủng khiếp như bẫy sập, đất chuồi và đá rớt,
Con chú tâm vào thật tánh của chúng,
Và dòng chảy của những hình tướng tư tưởng đa dạng chiếu sáng
Như là những quang minh của ánh sáng rực rỡ, vàng chói.

Đôi khi những ảo giác thuộc nước xảy ra :
Con bị cuốn đi bởi nước trôi ào ạt
Và ném vào những làn sóng của đại dương –
Và chúng chiếu sáng như những quang minh màu xanh đậm.

Đôi khi những ảo giác thuộc lửa xảy ra :
Những lưỡi lửa lóe sáng ; và con rơi vào một cảnh rùng rợn,
Bị bao phủ trong lửa đỏ sậm và khói –
Và chúng chiếu sáng như là những quang minh bốc lửa.

Nhưng có khi những ngọn gió lớn gầm thét,
Con bị thổi vào khoảng tối của không gian
Và lắc lư tới lui với âm thanh gấp gáp.
Không có điểm định hướng nào trong tâm
Con bị nỗi sợ hãi cái trống không cùng cực khống chế.

Khi những ảo giác phá hoại ấy xảy ra
Thiền định bị đứt quãng và lạc đường.
Con phải đối phó với điều ấy như thế nào ?
Lama nhân từ, xin hãy nói.

Để trả lời Mila hát :

Với thân, khẩu, ý kính cẩn
Con cầu nguyện dịch giả Marpa
Người đặt con vào con đường không hư huyễn
Bằng cách đập tan chuồng cũi huyễn hoặc.

Giờ hãy nghe, Rechungpa :
Đôi khi đang chú tâm vào trạng thái thực tại
Ảo giác thuộc về đất được kinh nghiệm,
Và cũng như thế với nước, lửa, gió và hư không.
Do chúng mà sợ hãi tấn công,
Những màu sắc sáng tự nhiên của các đại chiếu sáng,
Và những sáng tạo như huyễn và đa dạng xuất hiện.

Thân thể này có được là từ hành động (nghiệp)
Đã tích tập bởi vô minh qua thời gian vô thủy,
Chính cái tâm thức tác nhân chủ yếu
Tiếp tục gieo những hạt của hành động vô minh
Vào miếng đất của tâm thức căn bản.

Từ thời vô thủy đến nay
Con đã lạc mất mình trên cánh đồng bao la của huyễn hoặc
Trong những thân như huyễn tạo thành cách sai lầm đó.

Bây giờ do những giáo huấn của lama
Tâm thức con bị ép lại một chút,
Và những ảo giác gây khổ đau được trải nghiệm
Bởi sự xâm nhập yếu ớt của bốn đại vào cửa những kinh mạch –
Dấu hiệu của sự nới lỏng bớt những kinh mạch bị thắt gút
Và sự khơi động khí và hạt trắng.

Tại sao lại khổ sở hay sợ hãi
Hay kinh hoàng bởi việc này ?
Đó là dấu hiệu khó chịu của sự thực hành tốt,
Một chút nhỏ của kinh nghiệm thiền định
Dấu hiệu mở ra của những kinh mạch,
Sự phát hiện vẻ huy hoàng của bốn đại.

Giờ đây là giáo huấn của lama của con về điều ấy,
Sự cổ vũ của ngón tay ngài chỉ bày –
Hãy mang nó trong tâm, đứa con cao quý !

Nếu con muốn cái thấy của trí huệ thực sự,
Hãy khám phá bản tánh của tâm
Với chính tâm theo lối này :

Tâm này tự bản tánh trong sáng và trống không,
Như hư không tự do với mọi vật ;
Không chút gì hiện hữu
Để có thể biến nó thành một đối tượng cho sự hiểu biết.

Lấy ví dụ, điều này giống như sự bất lực
Của một con mắt để thấy chính nó,
Hay của hư không để phát lộ
Bản chất không thể phát lộ của mình.

Tâm không thể thấy chính nó –
Chủ thể và đối tượng không thể là hai ;
Bởi thế, để thấy tâm
Con phải nhìn và thăm dò bằng con mắt của trí huệ.

Khi thăm dò và khảo sát cặn kẽ
Với sự thẩm sát và khám phá theo lối phân tích
Cái tâm thì giống như tim bấc của một ngọn đèn
Chiếu sáng chỉ qua sự tỏa sáng của chính nó.

Cũng thế, dù cái tâm tự nhiên, tự sáng này
Thì trong sáng và thoát khỏi mọi che tối,
Nó sanh và diệt theo nhân quả
Trong mỗi niệm của tánh Giác
Và chỉ biết nó qua phân tích quán sát.
Bấy giờ cách thức nào cho sự chứng ngộ ấy ?

Trong chứng ngộ tánh Không nhờ cái giác bất nhị,
Phúc lạc, trong sáng và thoát khỏi dòng tư tưởng,
Ngay sự chứng ngộ này do cái giác ấy
Thoát khỏi nhị nguyên của chủ thể và đối tượng,
Của người biết và cái được biết,
Thì sự chứng ngộ này cũng chỉ là một quy ước danh xưng.
Hãy biết rằng những quy ước danh xưng
Không thể xem là hiện hữu
Một cách chủ quan, khách quan hay cả hai.

Để tóm tắt, nó như thế này :
Tâm thức nền tảng này
Tự trong chính nó là không có gì hết thảy.
Trong tánh Không của thực tại
Không có người-chứng-ngộ và cái được-chứng-ngộ được chứng ngộ,
Không có người thấy và cái bị-thấy được thấy,
Không có người biết và cái để biết được biết,
Không có người tri giác và đối tượng tri giác được tri giác.

Như thế, bằng cách chặt đứt những giả định lầm lạc của con từ bên trong.
Bằng cách chứng ngộ, thấy, biết và tri giác.
Sự không hiện hữu của bất kỳ một trung tâm nào ở trong tâm,
Hãy hiểu rằng mọi hình tướng này –
Những chuyển hóa đa dạng của tâm –
Là Một Vị trong tánh Không của thực tại.

Trong tánh Không, không có tăng thêm hay giảm bớt –
Không có xuất hiện, biến mất hay thay đổi.
Thực tại này của tâm tự giác,
Dầu cho nó xuất hiện như hợp lưu của nhiều lầm lỗi,
Tự bản chất vốn thoát khỏi sanh hay diệt,
Đến hay đi, hay biến dịch sát na.
Trong đó, không có hơn hay thiếu, không đầy hay khuyết,
Không có sự giúp đỡ hay làm hại, không có hiện hữu hay không hiện hữu chút nào.

Thức nền tảng này của Tự Tâm
Không có nền tảng khởi nguyên,
Không có nhân hay duyên tạo tác
Vì sự thường hằng của nó, không có cái gì để cần làm cho sáng tỏ
Trong những chức năng ý thức phù du của nó ;
Và lúc cuối cùng không có sự chấm dứt.

Tánh Giác rốt ráo trong sáng và thông tỏ này.
Không phân biệt với hư không,
Mà chỉ là đồng nhất
Tuy nhiên do những duyên cho đối tượng mà cái nhiều xuất hiện ;
Cái nhiều xuất hiện, mà chỉ là một –
Và trong đó không có đặc tính nào được tri giác thấy.

Mở cánh cửa ra tánh Không của đặc tính (vô tự tánh),
Giác trong sáng thanh tịnh tràn ngập khắp nơi,
Và dầu khắp nơi, không ở nơi đâu một đặc tính có thể được tìm thấy.

Dầu vô tự tánh hiện diện trong trạng thái của thực tại,
Những huyễn hóa chớp nhoáng lóe qua tâm.
Dầu những lỗi lầm đa dạng xảy ra,
Không có căn cứ hay gốc gác nào trong chúng có thể được nắm bắt.

Hãy trau dồi sự hòa nhập này vào trạng thái bổn nhiên
Qua thẩm sát và khám phá triệt để
Bằng trí huệ phân tích.

Như thế, hôm nay ta đã tiết lộ cho con ta
Lời khuyên bảo này của người cha ;
Sau khi thực hiện ý nghĩa tối hậu của nó,
Mong con có phước đức hướng dẫn
Cho tất cả chúng sanh đến giải thoát.

Phadampa Sangye, một đạo sư Ấn Độ có những thành tựu phi thường, đến Tây Tạng năm 1092. Ngài được kể lại trong chương 30 của Một Trăm Ngàn Bài Ca như là một trong năm thiền giả giác ngộ của thời đại. Ngài là một đệ tử của những thành tựu giả Ấn Độ Nagarjuna và Virupa và thuộc về phái Mật thừa của Tu viện Vikramasila. Dòng giáo lý của ngài, được gọi là “Sự làm bình yên khốn khổ” (TT. sdug bsngal zhi byed) đã không tồn tại như một hệ thống độc lập, như ngài tiên đoán trong câu chuyện đó. Tuy nhiên, ngài cũng đem những giáo lý “Cắt Đứt” (TT. gcod) đến Tây Tạng và Nepal và dạy cho nữ thiền giả Nepal nổi tiếng Ma Chig Lab Drošn, người đã sáng tạo ra hình thức “Cắt Đứt” đặc biệt của riêng mình. Hệ thống Cắt Đứt tiếp tục nguyên vẹn đến ngày nay và là dòng phái duy nhất đã truyền trở lại Ấn Độ sau khi phát triển ở Tây Tạng.

Câu chuyện này gồm hai bài ca nổi tiếng – “Bài Ca Điên” và “Bài Ca Không Sợ Hãi” của Mila – cả hai nằm trong Một Trăm Ngàn Bài Ca. Những giáo huấn chót của Phadampa Sangye cho dân chúng Dingri, thành phố phía tây nam Tây Tạng nơi ngài đã lập ra một tu viện và chính Mila thường đi đến đó, đã được đưa vào cuốn sách Sách Tây Tạng về Đại Giải Thoát (của Evans Wentz).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/05/2014(Xem: 5455)
Nổi tiếng là bộ Kinh Phật khắc trên gỗ lớn hàng đầu thế giới, Tripitaka Koreana từng được tổ chức UNESCO liệt vào hàng di sản văn hóa cao quý nhất của xứ bình minh yên tĩnh. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử để tồn tại cho đến tận bây giờ, bộ Kinh Phật này năm nay vừa tròn 1000 tuổi.
27/11/2013(Xem: 50012)
"Đức Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai Của Tôi" là một tập tự truyện của Mẫu Thân Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây là một tập sách hấp dẫn do Cụ bà Diki Tsering, Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại những chi tiết sinh động trong cuộc đời của mình, từ một phụ nữ nông thôn bình thường, bỗng chốc đã trở thành một người đàn bà có địa vị cao nhất trong xã hội, làm Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người lãnh đạo quốc gia Tây Tạng.
26/10/2013(Xem: 62709)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
09/10/2013(Xem: 12300)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18 tháng 9 năm 2013, trong mục Địa Lý và Chính Trị và qua một bài viết của ký giả Frédéric Robin đặc phái viên ở New Delhi, đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni (Lumbini). Dưới đây là phần chuyển ngữ.
18/09/2013(Xem: 4723)
Trong lá thư tháng 9 năm 2013 (http://www.bouddhismes.net/node/1659)của Viện Nghiên Cứu Phật Học Pháp gửi cho các thành viên có giới thiệu một bài báo nói về Phật Giáo Trung Quốc đã đăng trên trang web Fait-religieux.com(http://www.fait-religieux.com/monde/asie_pacifique/2013/06/16). Xin chuyển ngữ dưới đây. Một sự đổi mới thật ngoạn mục thế nhưng cần phải hiểu với sự thận trọng
05/06/2013(Xem: 25633)
Kỷ Yếu Kính Mừng Chu Niên Hai Mươi Năm (1990-2010) Thành Lập Tu Viện Quảng Đức
25/05/2013(Xem: 10309)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
23/04/2013(Xem: 8457)
Quyển Thiền Lâm Tế Nhật Bản quý vị đang cầm trên tay bằng tiếng Việt đây, chúng tôi dịch trực tiếp từ tiếng Nhật sang tiếng Việt, tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi, nhân kỳ nhập thất lần thứ ba tại đây. Công việc được bắt đầu từ ngày 24 tháng 10 năm 2005, đến ngày 18 tháng 11 năm 2005 bản dịch hoàn tất.
10/04/2013(Xem: 4294)
Hiện nay có hai bảng Niên biểu Phật giáo khá phổ biến và cả hai đều căn cứ vào một mốc thời gian duy nhất tương đối chính xác là năm đăng quang của hoàng đế A-dục, tức là năm - 268 hay - 267 trước Tây lịch. Các học giả Tây phương đặt tên cho hai bảng Niên biểu này là : "Bảng Niên biểu dài" và "Bảng Niên biểu ngắn". Theo bảng "Niên biểu dài" thì Đức Phật tịch diệt 218 năm trước khi hoàng đế A-dục chính thức lên ngôi, vì vậy nếu suy ngược lên bằng cách dựa vào mốc thời gian làm chuẩn là năm - 268, thì Đức Phật nhập vào Đại bát Niết bàn vào năm - 486
10/04/2013(Xem: 5111)
Số lượng Phật tử trên thế giới đã từng bị lượng định quá thấp. Những thống kê mà ta đọc được trong các Từ điển Bách khoa hoặc trong các Bảng Niên giám thường ghi con số nầy vào khoảng 500 triệu người. Con số nầy đã không kể đến hơn một tỉ người Trung Quốc hiện đang sống tại nước Cọng hòa Nhân dân Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]