Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

5. Những biểu tượng cho Kinh Nghiệm Thiền

09/01/201106:19(Xem: 4885)
5. Những biểu tượng cho Kinh Nghiệm Thiền

5

Những biểu tượng cho Kinh Nghiệm Thiền


Sau khi làm cái nhà mùa đông ở Lachi, Jetsušn Milarepa và vài đệ tử đến bình nguyên Gungthang ở mùa hè, trú ngụ trong Động Răng Ngựa Đá Trắng.

Một hôm Mila và Rechungpa đi lên phía Thượng Yerpo để cho thân thể được tĩnh dưỡng. Rechungpa yên lặng chắp tay hướng về lama của mình và họ cùng ngồi xuống nghỉ một lúc.

Những con kên kên bay lượn trên đầu họ. Những con gà gô kêu bên phải họ. Những con nai thận trọng gặm cỏ bên trái họ trong khi con của chúng chơi đùa. Và phía dưới họ là một thác nước ào ào phóng mình vào sông Tsangpo.

Thấy thế, Mila vui thích hát bài ca này :

Con lạy dưới chân lama tôn kính của con.

Hãy nghe đây con, Rechung Dorje Drak,
Những con kên kên này, hàng xóm chúng ta, vua của loài chim,
Kên kên bay lượn trong bầu trời,
Tìm thức ăn trên ba đỉnh núi này,
Và nghỉ ngơi trên sườn Núi Đỏ.

Mọi thứ ấy là những biểu tượng của cái thấy Thiền :
Cái thấy ấy không có chu vi hay trung tâm.
Chim kên kên của sự thấu hiểu tánh Không
Từ bi bay lượn tìm kiếm thức ăn là sự lợi lạc cho người khác
Và ngủ trên núi đá của sự hợp nhất tối hậu.

An lạc thay những thiền giả hoàn toàn hiến mình vào Pháp.
Con có hiểu nghĩa ta nói không, Rechungpa ?
Nhìn xem đó, lòng chúng ta vui sướng.

Những con gà gô này, hàng xóm chúng ta, những con chim thần thánh,
Kêu lảnh lót từ những bụi cây bên sông trên núi,
Tìm trái cây trong đồng cỏ cao nguyên,
Và ngủ trong những lùm cây của Núi Đất Sét.

Mọi thứ ấy là những biểu tượng của thiền định :
Con chim duyên dáng này của trạng thái thiền tự nhiên.
Kêu êm ái với tiếng giọng của hiện thể nguyên sơ,
Ăn trong đám cỏ của tịch tĩnh không chao động,
Và ngủ trong trạng thái quán chiếu tự sáng tỏ.

An lạc thay thiền giả đã đạt đến chân tánh của tâm.
Con có hiểu nghĩa ta nói không, Rechungpa ?
Nhìn xem đó, lòng chúng ta vui sướng.

Những con nai cảnh giác này, hàng xóm chúng ta,
Bỏ ba đỉnh núi cằn cỗi này
Đi xuống ăn cỏ trong cánh đồng xanh non.
Ở đó chúng vui chơi trong những điều kiện thoải mái,
Và ngủ ở Núi Hùng Vĩ.

Mọi thứ ấy là biểu tượng của thực hành Thiền :
Sự tự do tự nhiên bắt gặp trong thực hành
Là sự tỉnh giác cân nhắc kinh nghiệm tốt và xấu.
Nó đi xuống những cánh đồng cỏ của từ và bi,
Vui chơi với sự lợi lạc của tất cả chúng sanh,
Và thân thiết với ngọn núi của sự hồi hướng bình đẳng.

An lạc thay thiền giả mà tâm thức tỉnh giác.
Con có hiểu nghĩa ta nói không, Rechungpa ?
Nhìn xem đó, lòng chúng ta vui sướng.

Nước chúng ta uống, dòng sông núi mát lạnh này,
Tự khởi nguồn trong những đồng cỏ của Núi Trắng,
Chảy đầy chỗ trũng của Núi Đất Sét,
Và tiếp tục trôi không dứt qua.

Mọi thứ này là biểu tượng của những kết quả Thiền :
Những kết quả ấy, những thân vốn sẵn đủ của Phật,
Chính chúng tự khởi lên như kết quả trên nền tảng,
Lắp đầy chỗ trũng của sự khẩn cầu trong sạch,
Và làm đầy lợi lạc cho chúng sanh đến hết thời sanh tử.

An lạc thay thiền giả tự do khỏi lo âu.
Con có hiểu nghĩa ta nói không, Rechungpa ?
Nhìn xem đó, lòng chúng ta vui sướng.

Trong hang Núi Trắng, chỗ tu hành của thầy,
Thầy phát sanh sức mạnh chú tâm vượt khỏi thiền định.
Những chiến sĩ và dakini tụ lại như mây
Thầy trải qua đêm tỉnh giác, trong tánh Giác phúc lạc.
No nê với mọi loại điềm triệu tốt lành.
Ban ngày, sự chứng ngộ thấu suốt chiếu sáng như kinh nghiệm phúc lạc ;
Thiền định như thế, thầy là Đại Thiền giả Repa.

Hãy thả bay trong gió những quan tâm tới cuộc đời này,
Và in vào trong con thời gian chết khi nào không biết.
Nhớ sự khổ đau của sanh tử,
Thì tại sao còn mong đợi điều vô ích ?

Hãy sống đời người trong thung lũng vô ngã,
Hãy giữ chắc chỗ ngồi của lòng can đảm không lay chuyển,
Và đáp ứng những lợi lạc của chính con và của những người khác.

Con có hiểu nghĩa ta nói không, Rechungpa ?
Mila đã xem thấy điều này và lòng nó vui sướng.

Con xin dâng tặng bài ca sùng mộ này, hỡi lama tôn kính !
Xin hãy dự phần trong bữa tiệc âm thanh này, hỡi những dakini !
Hãy cất đi sự ngăn che của các ngươi, những loài phi nhân !
Hãy trông nom bài ca tốt lành này của lòng sùng mộ !

Sự hướng dẫn tối hậu là tự tánh của chính mình ; hay nói rõ hơn, đó là cách mà kinh nghiệm của đời con người và sự thực hành được thấu hiểu và được dùng cho lợi lạc lớn lao tốt đẹp nhất. Chính nó là sự chỉ dẫn duy nhất đích thực cho việc ở đâu và đi đâu. Các đệ tử của Mila muốn hành hương đến một thắng tích danh tiếng, bởi thế Mila chỉ ra sự không thích hợp của những thủ tục hình thức này và giải thích cái gì là quan trọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 7712)
ÚC ĐẠI LỢI: Trung tâm Phật học Nam Thiên được xây lên từ khu đất hoang Wollongong, New South Wales – Tại một khu đất hoang được mua từ hội đồng địa phương với giá một đô la, một tòa nhà lấy cảm hứng từ hoa sen đã được xây dựng nên và một ngày nào đó nó có thể là hiện thân của trường đại học Phật giáo đầu tiên của Úc Đại Lợi. “Nó rất có tính biểu tượng – tòa nhà hoa sen vươn khỏi khu đất hoang này”, nhà toán học John Loxton, viện trưởng sáng lập viện Nam Thiên nói. Tọa lạc ở nam Wollongong, tòa nhà trong khuôn viên khu đại học vươn lên không gian với những phần bê tông uốn cong với kiểu dáng đẹp. Bên ngoài, các tấm chắn và ngói màu đất sét của tòa nhà hài hòa với ngôi chùa Nam Thiên có mái đất nung truyền thống nằm liền kề. Giáo sư Loxton nói rằng tất cả đã bắt đầu với các dịch vụ sau đại học về nghiên cứu Phật giáo ứng dụng, và học viện có kế hoạch xây dựng thêm nhiều khóa học hơn để đáp ứng về kinh doanh và cuộc sống chuyên nghiệp. (The Australian – October 15, 2014)
19/10/2014(Xem: 34073)
Cuốn PHẬT GIÁO KHẮP THẾ GIỚI, do Tỷ khưu Nguyên Tạng viết, là một đề tài hấp dẫn mà đáng lẽ phải có từ lâu. Ðối với người con Phật ở Việt Nam / châu Á thì sự kiện nổi bật nhất ở nửa cuối thế kỷ XX không hẳn là cuộc cách mạng Tin học, mà là sự phát triển ngoạn mục của Phật giáo tại Tây AÂu và Bắc Mỹ. Thực ra, cuộc cách mạng giác ngộ nhân chủ khởi nguyên từ hậu bán thế kỷ XVIII là do sự thức tỉnh của giới trí thức phương Tây sớm biết tìm đến với Ðạo Phật, và đã lái lịch sử thế giới đi vào con đường giải thoát thân phận con người khỏi khổ đau, mê tối, và giải phóng các dân tộc nhược tiểu thoát cảnh thù địch, lạc hậu – Phải chờ hơn hai thế kỷ.
16/10/2014(Xem: 10476)
Chaman Lan và một số học giả Hoa Kỳ cho rằng không phải ông Columbus đầu tiên tìm ra Châu Mỹ mà chính những người di dân Hindu từ Ấn Độ. Lý luận mới lạ này được dựa vào một số truyền thống thịnh hành ở Trung Mỹ và Mexico. Nhưng giả thiết này thiếu sự ủng hộ của bằng chứng văn học. Tuy nhiên chúng ta cũng có ít nhất là một điểm được ghi lại trong lịch sử Trung Hoa nói đến một đoàn tu sĩ Phật Giáo đến Châu Mỹ vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch và đã đưa Phật Giáo vào dạy cho những người dân ở đó.
02/09/2014(Xem: 10298)
Các tổ chức cá nhân trên thế giới đã tập hợp để bày tỏ lo ngại ngôi Borobudur (Bà La Tự viện quần-婆羅浮屠寺院群) Đại Già lam lớn nhất thế giới, bởi mối đe dọa gần đây của nhà nước Hồi giáo (IS). Ngôi Borobudur (Bà La Tự viện quần-婆羅浮屠寺院群) Đại Già lam lớn nhất thế giới, là một ngôi Chùa Tháp Phật giáo quy mô, miền Trung đảo Java, Indonesia.
17/08/2014(Xem: 25604)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 8580)
Vào thời đại Silla (Tân La) ở Hàn Quốc, khoảng hơn Nghìn năm trước, có một cậu bé tên là Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城) sống ở làng Moryang. Vì hoàn cảnh gia đình gặp phải khó khăn về kinh tế, cho nên cậu phải rày đây mai đó làm thuê mướn để đổi lấy bát cơm manh áo và phụ giúp gia đình. Một hôm, sau khi dự buổi thính pháp đàm của một vị Pháp sư giảng giáo lý Phật đà, cậu liền về nhà thuyết phục mẹ mình cúng dường mảnh ruộng vườn, tài sản duy nhất của gia đình để tích phúc đức.
23/07/2014(Xem: 7140)
Bằng việc cho phép phụ nữ gia nhập Tăng đoàn, Đức Phật 2.500 năm trước đã đặt phụ nữ bình đẳng với nam giới ở Ấn Độ. Nhưng ngày nay ở hầu hết các quốc gia Phật giáo châu Á nữ tu đang chiến đấu một trận chiến khó khăn để được công nhận là người truyền bá Giáo pháp. Một người phụ nữ Nepal có thể đã vô tình thay đổi nhận thức này bằng cách hát về Giáo pháp.
23/07/2014(Xem: 4897)
1500 người tham gia cầu nguyện nạn nhân Malaysia Airlines MH17 Phật Quang Sơn, Trụ trì Tuệ Phong pháp sư (慧峰法師) chính giữa, Tuệ Nghi pháp sư (慧宜法師) bên phải, Tuệ Trạch Pháp sư (慧澤法師) bên trái, ba vị dẫn đoàn 1500 Thiền sinh, Trại sinh Thiền học Quốc tế cùng đến trước Phật đài, thắp nến để cầu nguyện cho các nạn nhân chuyến bay MH17 Malaysia Airlines.
28/05/2014(Xem: 5955)
Đảo Jeju, Hàn Quốc; vịnh Hạ Long, Việt Nam; Thác Iguazu (Bra-xin và Ác-hen-ti-na), Đảo Komodo (Indonesia), Rừng mưa Amazon và Sông Amazon, Vườn quốc gia sông ngầm Puerto Princesa (Philippines) và Núi Bàn (Nam Phi) được bình chọn là "Bảy kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới” vào cuối năm 2011.
26/05/2014(Xem: 10672)
New Delhi, India – Nhà truyền bá Phật giáo Toàn cầu đầu tiên của thế giới Anagarika Dharmapala và người đàn ông được nói đều nhiều nhất ở Ấn độ ngày nay, và có lẽ những người có quyền thành lập chính sách và đưa ra quyết định, Thủ tướng Ấn độ, ông Narendra Modi, đều có một số điểm chung. Cả hai đều sinh ngày 17 tháng 09 mặc dầu cách nhau 86 năm. Anagarika Dharmapala sinh ngày 17 tháng 09 năm 1864 và Narendra Modi chào đời ngày 17 tháng 09 năm 1950.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]