Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương" trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc

15/01/201215:02(Xem: 6883)
Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương" trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc
Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương"
trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc
Nguyên Thái Hòa

Đa Văn Thiên Vươnglà một vị thần trong thần thoại của Ấn Độ cổ. Theo truyền thuyết, ngài là thầnDạ xoa có tên Kuvera hay Kubera. Ngoài ra, ngài cũng được gọi là Vaiśravanahoặc Vessavana, phiên âm Hán Việt là Tỳ Sa Môn. Còn xung quanh việc xuất thâncủa ngài, cho đến nay vẫn còn nhiều truyền thuyết khác nhau. Nhưng có mộttruyền thuyết phổ biến nhất kể lại rằng: Kubera (phiên âm Hán Việt: Câu Tỳ La)được vị thần sáng tạo của Ấn Độ là Đại Phạm Thiên sai bò mẹ mang thai và sinhra. Thần vốn hiền lành, không thích tranh đấu nên bị người em khác mẹ là La SátVương đuổi đến Lanka (nay là Srilanka), về sau, thần di cư đến Cương Nhân Ba Tề(núi thần của Phật giáo tại A Lý - Tây Tạng). Mặc dù bị đuổi khỏi gia đình,nhưng do có căn tu cộng thêm hàng ngàn năm khổ luyện, nên Kubera được Đại PhạmThiên ban cho sự trường sinh bất tử, trong coi kho báu của thế gian và cũng làvị thần bảo hộ của phương Bắc. Tại Ấn Độ, vai trò của Kubera quan trọng khôngkém gì thần đầu voi Ganesa(1).

Sau khi được du nhập vào Phật giáo Ấn Độ, Tỳ Sa Môn trở thành một vị trấngiữ phương Bắc của cõi trời thứ nhất trong Dục giới, chuyên hàng phục chúng ma,bảo hộ Phật pháp cùng chúng sanh. Bởi theo quan niệm thế giới quan của Phậtgiáo, thế giới chia làm ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, gọi chung làTam giới. Theo đó, tất cả chúng sanh ở thế gian đều chịu kiếp luân hồi trongTam giới này, và chỉ khi nào tu hành đạt đến cảnh giới Niết bàn thành Phật thìmới thoát ra khỏi, không còn chịu kiếp nạn luân hồi. Trong Tam giới, Dục giớilà giới thấp nhất, có: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la, loài người cùngmột bộ phận thiên thần. Trong Dục giới lại có 6 cõi trời, và cõi thứ nhất chínhlà nơi ngự trị của Tỳ Sa Môn. Và cũng như các vị Hộ pháp khác, Tỳ Sa Môn đượcmiêu tả mình mặc giáp trụ, thân màu lục, mặt vàng, tay cầm lọng báu che chở chochúng sanh. Trong “Đại tập kinh” có ghi, đó là trách nhiệm to lớn của Ngài màchư Phật đã ủy thác ở cả hiện tại và vị lai(2).

Khi Phật giáo được du nhập vào Trung Quốc, người Trung Quốc xưng tụngNgài là Duō Wén Tiān Wáng (多闻天王), phiên âm Hán Việt là Đa Văn Thiên Vương, với ý nghĩa là “vị thiênvương nghe cả thế giới”. Từ đó, theo từng vùng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đạithừa Trung Quốc mà tên gọi của vị thần này được phiên âm khác nhau. Tại NhậtBản, vị thần này được gọi là Tamon-ten hoặc Bishamon-ten, tại Hàn Quốc làDamun-cheonwang(3)và tại Việt Nam cũng gọi là Đa Văn Thiên Vương.

Đa Văn Thiên Vương cùng với các vị thần Trì Quốc Thiên Vương, Tăng TrưởngThiên Vương, Quảng Mục Thiên Vương hợp thành Tứ Đại Thiên Vương và đều là thànhviên của 20 chư thiên. Theo truyền thuyết Phật giáo, các vị này là những Thiênvương dẫn đầu trong 8 vị thần tướng, trấn giữ 4 phương của núi Tu Di, nên cũnggọi là “Tứ Thiên Vương”, “Tứ Đại Kim Cang”, “Hộ Thế Thiên”... Trách nhiệm củacác vị là hộ trì Phật pháp, bảo vệ chúng sanh, đem lại cho chúng sanh sự an cưlạc nghiệp, tài bảo đầy đủ, phúc đức tăng trưởng, tiến vào Chánh pháp. Do vậy,từ xưa đến nay, Tứ Đại Thiên Vương có mối quan hệ rất gần gũi và mật thiết vớichúng sanh, được tôn thờ ở nhiều nơi, trong các chùa, miếu trên khắp TrungQuốc. Mà hình tượng thường thấy nhất là 4 vị to lớn, uy nghi, được đặt ở ThiênVương điện, gần cổng chính khi vào chùa.

Truyền thuyết dân gian Trung Quốc đã nhắc đến các vị này từ thế kỷ thứIV, nhưng phải đến thời Đường (618 - 907), hình tượng của Tứ Đại Thiên Vươngmới lần đầu tiên xuất hiện qua các thư tịch cổ cùng những bức tượng, phù điêubằng gỗ, đồng hay trên vách đá... còn lưu lại đến ngày nay, với: Đông phươngTrì Quốc Thiên Vương, thân màu trắng, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm đao, tayphải cầm trường mâu hoặc cầm cung tên; Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương, thânmàu xanh, mình mặc giáp trụ, tay cầm bảo kiếm; Tây phương Quảng Mục ThiênVương, thân màu đỏ, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm trường mâu, tay phải cầmxích thừng, cũng có lúc một tay cầm bảo kiếm; Bắc phương Đa Văn Thiên Vương,thân màu lục, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm gậy tích trượng hoặc trường mâu,tay phải cầm bảo tháp. Dưới chân của Tứ Thiên Vương đều giẫm lên một con quỷbiểu thị cho uy lực của Chánh pháp(4). Sau thời Nguyên (1271 -1368), Phật giáo ở nhiều địa phương của người Hán từng bước được Hán hóa, theođó mà hình tượng của Tứ Đại Thiên Vương cũng có một vài thay đổi về phong cáchtạo hình. Cụ thể: Đông phương Trì Quốc Thiên Vương tay cầm đàn tỳ bà; Namphương Tăng Trưởng Thiên Vương tay cầm thanh quang bảo kiếm; Tây phương Quảng MụcThiên Vương tay cầm con rắn; Bắc phương Đa Văn Thiên Vương tay cầm lọng báu,phân chức thành Phong, Điều, Vũ, Thuận.

Trong Tứ Đại Thiên Vương, thì Bắc phương Đa Văn Thiên Vương là vị thầnnổi danh nhất. Ngài vừa là hộ thần của phương Bắc Ấn Độ cổ, lại là vị thần tàiphú, dùng võ để giúp người, được đại chúng kính ngưỡng, tôn thờ và Ngài cũng làvị thần được tôn thờ sớm nhất trong Tứ Đại Thiên Vương ở Trung Quốc. Tại cáchang đá ở Vân Cương (tỉnh Sơn Tây, đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóathế giới vào năm 2001), Long Môn (tỉnh Hà Nam) đã sớm có những bức tượng vềNgài. Sở dĩ như vậy, là theo truyền thuyết dân gian, vào thời nhà Đường, niênhiệu Thiên Bảo nguyên niên (742), có giặc Tây Vực sang xâm chiếm thành Tây An.Lúc này, Đa Văn Thiên Vương đã hiện thân tại lầu thành Bắc Môn, dẫn trăm thầnbinh nghênh chiến với địch, phái “sóc vàng” cắn đứt dây cung của quân địch, đạiphá vòng vây. Để cảm phục ơn đức của Ngài, Đường Huyền Tông lập tức truyền lệnhcho các châu, phủ, thành ở vùng giáp ranh Tây bắc đều tạc tượng Thiên Vương,sau đó lại lệnh cho các ngôi chùa xây dựng “biệt viện” mà đặc biệt thờ phụngNgài(5). Và cho đến ngày nay, ở các địa phương này của Trung Quốc,Đa Văn Thiên Vương còn được xem là một vị thần chiến đấu và tín ngưỡng tôn thờNgài cực thịnh.

Đa Văn Thiên Vương là vị thần trấn giữ phương Bắc, Ngài đồng thời bảo hộPhật pháp, thường xuyên nghe Như Lai thuyết pháp, nên gọi là Đa Văn ThiênVương, lại là vị thần tài bố thí, vượt biển hành đạo, ban bố tài bảo kim lượngcho chúng sanh. Với công đức vô lượng của Ngài như vậy, nên trong dân gian thờphụng rất phổ biến, gọi Ngài là “Đa Bảo Thiên Vương” hay “Tài Bảo Thiên Vương”.Và tín ngưỡng dân gian cũng tin rằng, Ngài chính là hóa thân của một vị Đại Bồtát.

Trong Phật giáo Mật tông, Tài Bảo Thiên Vương là một trong bảy Phúc thần,hình tượng thường thấy của Ngài là cưỡi trên con sư tử, đầu đội Bảo quang, toànthân màu vàng kim, tay phải cầm lọng, tay trái nắm con “sóc vàng” miệng nhả hạtchâu bảo, tượng trưng cho tài phú liên tục không ngừng. Ngài là vị thần nắm giữviệc chuyển hóa phúc báo và công đức, tài phú của thế gian, bảo hộ Phật pháp,diệt trừ ma chướng, làm thanh tịnh cảnh giới Ta bà.

Đa Văn Thiên Vương hay Tài Bảo Thiên Vương, là một trong những vị thầncủa Đế Thích, có năng lực bảo hộ thế gian, nên cũng được gọi là Hộ Thế Giả.Danh hiệu của Ngài: Bắc phương Tỳ Sa Môn Đa Văn Thiên Vương, là biểu hiện chosự phúc đức công hạnh của Ngài và là sự hóa thân của Nam phương Bảo Sanh Phậttrong Ngũ phương Phật. Bên cạnh Ngài còn có 8 vị tài thần thuộc hạ, gọi là “Báttuấn Tài thần” hay “Bát lộ Tài thần”, nắm giữ ở 8 hướng, cùng giúp cứu độ chúngsanh, làm sung túc, đủ đầy nguyện cầu của tín chúng.

Theo giáo lý Phật giáo, muốn nhận được sự gia trì của Tài Bảo Thiên Vươngvà Bát Lộ Tài Thần, thì chúng sanh cần giữ được “Tam quy, Ngũ giới”, như chuyêntâm niệm chú, có tấm lòng từ bi hỷ xả, và thường phát hạnh nguyện làm việcthiện mang lại lợi lạc cho tất cả chúng sanh, lúc đó sự nghiệp sẽ thuận lợi,mọi kế hoạch lớn nhỏ đều phát triển, hanh thông, cầu tài được tài, tương ứngnhanh chóng.

Ngày nay, trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, mà đặc biệt là tín ngưỡngthờ thần tài, bên cạnh các vị thần như: Triệu Công Minh, Quan Vũ, Bỉ Can, PhạmLãi..., thì có không ít các gia đình Phật tử hay trong các cửa hàng buôn bánđều thờ phụng Đa Văn Thiên Vương làm thần tài, với mong muốn được Ngài bảo vệ,chở che cũng như mua may bán đắt - như ở thành phố Côn Minh, tỉnh Vân Nam. Còntại núi Phi Lai, thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, có nhiều gian thờ Đa VănThiên Vương được tạc trên vách núi, có cặp liễn đối nói về nguyện vọng củathiện nam tín nữ trong việc tôn thờ Ngài rằng:

秉教统领诸天大千世界

以宝普施众地不二法门

Bỉnh giáo thống lĩnh chư thiên đại thiên thế giới

Dĩ bảo phổ thí chúng địa bất nhị pháp môn

Tạm dịch:

Nắm chắc giáo lý của Phật, quản lãnh chư thiên khắp các cõi trời trongmuôn ngàn thế giới.

Lấy Pháp bảo của Phật, ban khắp thế gian hướng chúng sanh đến con đườngduy nhất là giải thoát.

(1) 诺布旺典: (唐卡中的财神), 152页, 陕西师范大学出版社, 2009 年.

(2)诺布旺典: (藏密财神法), 224页, 紫禁城出版社, 2008 年.

(3)http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90a_V%C4%83n_thi%C3%AAn_v%C6%B0%C6%A1ng

(4)李跃忠: (财神),107-108 页, 中国社会出版社, 2009 年.

(5)李跃忠: (财神), 108 页, 中国社会出版社, 2009 年.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. 仓圣: (财神图说), 哈尔滨: 黑龙江美术出版社, 2005年.

2. 马书田, 马书侠: (全像福寿财神), 江西美术出版社, 2008 年.

3. 诺布旺典: (藏密财神法), 紫禁城出版社, 2008 年.

4. 李跃忠: (财神), 中国社会出版社, 2009 年.

5. 诺布旺典: (唐卡中的财神), 陕西师范大学出版社, 2009 年.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/01/2022(Xem: 3394)
Thầy Claude Anshin Thomas sinh năm 1947, gốc người Mỹ, Thiền giả, diễn giả, học giả về Công lý & Hòa bình, Giáo thụ Thiền học, nhà văn quốc tế, chiến sĩ hòa bình ủng hộ bất bạo động. Đến tuổi thanh xuân, Thầy từng là một cựu chiến binh Hoa Kỳ tham gia chiến tranh chống Cộng sản tại chiến trường Việt Nam. Khi về quê nhà Hoa Kỳ, sau những lần bệ kiến Thiền sư Thích Nhất Hạnh và kết duyên Bồ đề quyến thuộc Phật pháp với Thiền sư Cư sĩ Bernie Glassman (1939-2018), vị Thiền giả, một nhà tiên phong nổi tiếng thế giới trong phong trào Thiền Phật giáo Hoa Kỳ, nhà lãnh đạo tinh thần, tác giả, nhà xuất bản, một nhà tiên phong trong Doanh nghiệp Xã hội Phật giáo bền vững; Thầy Claude Anshin Thomas đã nhận thức được ý nghĩa là hòa bình bất bạo động, biến súng đạn thành chất liệu Từ bi để hóa giải hận thù và năm 1995 Thầy xuất gia theo thiền phái Tào Động Phật giáo Nhật Bản, trở thành vị thiền giả nổi tiếng. Thầy truyền đạt giáo lý Thiền đạo Phật theo cách thức phi tôn giáo, trực tiếp và đúc
13/01/2022(Xem: 3245)
Cư sĩ WS Merwin, cựu Viện trưởng Học viện Nhà thơ Hoa Kỳ, một bậc thầy thơ đa năng người Mỹ, với nhiều phong cách khác nhau, đã sáng tác hơn 50 tác phẩm thơ và văn, nhiều tác phẩm chuyển dịch.Trong phong trào chống chiến tranh vào những thập niên 1960, các tác phẩm độc đáo của ông được đặc trưng bởi lối kể chuyện gián tiếp, không ngắt quãng. Trong những thập niên 1980-1990, việc sáng tác của ông lấy cảm hứng từ triết lý đạo Phật và sinh thái sâu sắc.
13/01/2022(Xem: 3004)
Moscow chưa bao giờ thiếu vắng Giáo đường. Trước cuộc Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, thậm chí còn có một biểu đạt đặc biệt, "bốn mươi bốn", được sử dụng để miêu tả số lượng Giáo đường trong thành phố (nghĩa là 40 nhân 40, tức là 1.600, hoặc chỉ "rất nhiều"). Ngày nay, Moscow có Giáo đường Chính thống giáo Nga, Công giáo La Mã, Anh giáo và Cộng đồng các Giáo hội Luther, cũng như các nhà thờ Hồi giáo và Hội đường Do Thái giáo. Hầu hết tất cả người Muscovite và du khách thập phương đến thành phố có thể nhìn thấy nơi thờ phụng cho riêng mình, ngoại trừ các Phật tử. Các thành viên tôn giáo này, một trong ba tín ngưỡng chính trên thế giới, chưa có một nơi thờ phụng ở Moscow.
11/01/2022(Xem: 2647)
Sự sụp đổ của Đế quốc Nga và sự trỗi dậy của Chủ nghĩa Cộng sản là một tai họa khủng khiếp đối với đạo Phật. RIR - Russia Beyond đăng tin bằng tiếng Nga cho biết thời kỳ đen tối này bởi đạo Phật bắt nguồn từ Ấn Độ. Sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, Phật tử, cùng với các tín đồ tôn giáo khác là mục tiêu đàn áp của nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Liên Xô (tân chính phủ). Vào đầu những thập niên 1940, khi các tôn giáo hoàn toàn bị biến mất, thực tế bởi không còn tu sĩ tôn giáo hay chùa chiền và nhà thờ, thánh đường nào nữa tại Liên Xô.
11/01/2022(Xem: 3118)
Nhân dịp kỷ niệm 75 năm thành lập Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) và kỷ niệm 30 năm ngày Thành lập Văn phòng Đại diện UNESCO tại Vương quốc Phật giáo Campuchia, một buổi tiệc chiêu đãi đối tác đã được tổ chức tại Văn phòng Đại diện UNESCO tại thủ đô Phnom Penh vào cuối tháng 12 năm 2021.
11/01/2022(Xem: 2368)
Đại học Tăng già Phật giáo Vientiane (Sangha College in Vientiane, Laos) được thành lập vào năm 1929 (PL.2472), do Vương thân Phetsarath Rattanavongsa (1890-1959) và Trưởng lão Hòa thượng Somdet Phra oukeo Outhen Sakda, Tăng thống Vương quốc Phật giáo Lào và Thống đốc Vientiane kiến lập.
08/01/2022(Xem: 3734)
Đại học Phật giáo Nālandā Malaysia -Giáo dục toàn diện, Phát triển Con người toàn diện" (Nālandā Institute Malaysia -Holistic Education for Integral Human Development). Đại học Phật giáo Nālandā Malaysia (NIM) đã được hình thành vào tháng 01 năm 2006, nhằm đáp ứng nhu cầu của cộng đồng Phật giáo, để có một cơ sở giáo dục Phật giáo tại Malaysia. Cố vấn tinh thần cho Hội Phật giáo Nālandā, Hòa thượng Tiến sĩ Kirinde Sri Dhammananda Nayaka Thera đáng kinh, đã cho thấy sự ủng hộ rõ ràng với ý tưởng của Ngài.
08/01/2022(Xem: 6119)
Taxila: Trong một cuộc khai quật một Bảo tháp Phật giáo tại Ban Faqiran, nhà Khảo cổ học của Bộ Liên bang Khảo cổ học đã phát hiện đồ cổ quý hiếm, trong đó có một đồng xu bằng đồng từ thời Vương triều Mughal, một đế quốc Hồi giáo (chịu ảnh hưởng từ nền văn hoá Ba Tư) ở Tiểu lục địa Ấn Độ đã ra đời vào năm 1526, nắm quyền kiểm soát trên phần lớn tiểu lục địa trong các thế kỷ 17 và 18, và cáo chung vào giữa thế kỷ 19.
08/01/2022(Xem: 3224)
Ung Chính lên ngôi lấy hiệu "Thuận Trị Hoàng đế, 順治皇帝" từ nhỏ đã thích đọc kinh sách Phật giáo, quảng giao tăng chúng, tinh thông Phật lý. Vua học thiền với Quốc sư Chương Gia, được hướng dẫn Thiền tọa liên tục trong hai ngày, đương thời Quốc sư Chương Gia (章嘉國師) khen ngợi vua có Chủng Tính Tối Thượng Thừa, khuyến khích bế quan nhập Thất Thiền tu, 14 ngày đêm miên mật tham cứu công án thoại đầu...
08/01/2022(Xem: 5020)
Bengal cổ đại là một trung tâm chính của Phật học, nghệ thuật và chủ nghĩa đế quốc; quả thực, đạo Phật là nền tảng của di sản văn hóa và ngôn ngữ của Bengal - bài thơ đầu tiên ở Bengali là Charyapada, được sáng tác bởi Chư tôn thiền đức Tăng già Phật giáo thời bấy giờ. Các Charyapada là tập hợp các bài thơ Thần kỳ, những bài tán thán sự chứng ngộ trong Kim Cương thừa truyền thống của Phật giáo mật tông ở các nơi Assam, Bengal, Bihar và Orissa. Theo các học giả đương đại, thuật ngữ Dharma trong tiếng Bengal có nghĩa là "Bauddha Dharma" (Buddhadharma) hoặc Phật pháp (佛法) và thuật ngữ Dharmapuja có nghĩa là "Buddhapuja". Khi Phật giáo bắt đầu suy tàn ở nhiều nơi khác nhau của Ấn Độ, nơi trú ẩn cuối cùng của Phật giáo là ở Bengal.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567