Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo lý nhà Phật

14/03/201105:40(Xem: 13728)
Đạo lý nhà Phật

ĐẠO LÝ NHÀ PHẬT
Tác giả: Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
NXB: Tôn giáo
Khổ sách: 14.5x20.5cm
Độ dày: 160 trang

310

MẤY LỜI ĐẦU

“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”.

Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.

Sau khi lăn lóc nơi trần gian thế sự, mỏi gối chồn chân vì bã lợi danh, chìm nổi nơi bể ái sóng tình, rồi ngồi nghĩ lại cái đời mình, bao người lấy làm ngao ngán! Bấy giờ tưởng đạo lý nhà Phật với mình cũng như chiếu bông gối dựa đối với người buồn ngủ, tha hồ mà ôm ấp lấy!

Sau khi xem kinh sử của các nhà đạo đức Đông Tây, và rõ biết nhiều chủ nghĩa duy kỷ, hẹp hòi, bó buộc con người vào những nỗi vô vị, khắt khe, rồi mới thấy được đạo lý Từ Bi Hỷ Xả của Phật, bao người rất lấy làm ưa chịu, bèn mộ xem kinh Phật, vừa lấy lòng từ mà bủa khắp chúng sanh, lại vừa tha hồ mà suy xét, thẩm nghĩ các lý thuần!

Sau khi xem sách vở của lắm nhà hiền triết xưa nay, thấy pha lẫn nhiều phần của đạo Phật, lại thấy lắm nhà thông thái chịu ảnh hưởng văn minh, triết lý và học thuật nhà Phật mà được vinh danh, bao người lấy làm vui mà thấy nhân loại hưởng nhờ đạo Phật, một nền đạo đức bao la, siêu việt thăm thẳm, mênh mông!

Vì các lý ấy cho nên kẻ hèn nầy rất vui lòng mà học Phật. Học Phật, hiện thời biết bao người nhận rằng mình là người học Phật! Trong mấy năm nay, từ năm 1930, từng nghiên cứu kinh sách và giao thiệp với các hạng người học Phật, tôi nhờ đó mà được tấn bước về đường đức hạnh. Và cũng do nơi đó mà có những cảm tưởng dưới đây để dâng lên các nhà học Phật, cư sĩ hoặc xuất gia.

Tôi từng gặp lắm nhà đáng trọng, mà cũng từng biết lắm nhà đáng khuyên. Tôi từng thấy lắm người ít học mà thông, lại cũng từng nhận ra lắm người cao tài mà dốt. Xét ra, trong những người nhà Phật mà mình biết, kẻ được bề nầy thì mất bề kia, kẻ được bề kia lại mất bề nọ. Lắm người lại mất nhiều bề, hoặc là khuyết điểm những bề chánh đáng. Cho nên bước đường tấn đức vì đó mà hóa ra lâu. Những bề đó, những điều kiện đó, đại để tôi biên ra dưới đây.

DUNG HÒA - Tôi thấy nhiều người thiếu cái đức dung hòa. Ấy là mất đi một điều kiện đại khái của người học Phật. Thiếu dung hòa, tức là hay câu chấp. Thành ra có cái sở kiến hẹp hòi, đạo Phật gọi những người nầy là kẻ “chấp trước”. Giả như mình trọng cái lý nào, hoặc cách hành đạo nào mà thấy người khác không theo sở ý, sở hành của mình, thì mình chẳng bằng lòng, vội cho người ta là kém, thấp. Ta phải dưỡng cho có cái đức nhu hòa thiện thuận, đặng vừa ý với sự luận biện, lý thuyết, lối hành đạo của mọi người, miễn các sự ấy có giúp được cho họ thì thôi. Đối với những người khác tôn giáo, trí lý họ nhiều khi ta còn dung nạp được, huống hồ đối với người trong đạo Phật ? Vậy tôi mong cho các bạn tu hành đắc cái đức dung hòa đặng tiện giúp mình trong đời học đạo!

ĐỨC TIN - Tôi lại thấy lắm người, trong khi xem kinh sách, hay đem lòng nghi. Đức Phật là cha lành của chúng sanh, ngài đắc đạo đến Quả hoàn toàn thì đâu còn luống dối. Thế mà lắm người xem kinh do ngài thuyết, thường hay nghi ngờ, có khi chê bai, bài bác nữa. Chư Bồ tát đều là hạng người thương đời, đâu có dạy sai, thế mà nhiều kẻ chẳng vừa ý nên nghi kỵ, chẳng tin. Sự nghi kỵ là một cái trở lực lớn của con nhà đạo Phật. Nhiều lúc, khi đọc ta chưa hiểu; mà về sau ta hiểu cũng có. Hoặc đang khi đọc ta chưa thấy ra chỗ hay; mà về sau, một đôi năm sau cũng có, ta nhận ra là những lý huyền vi, bí ẩn. Lắm khi những tích tìm thường, những vật dễ hiểu, thế mà lại là những biểu hiệu chứa lấy những chỗ kín đáo cho kẻ hữu tâm. Vậy nên xem qua tích Phật, đọc qua kinh Phật, các bạn nếu chưa hiểu, chưa thấu, chưa nhận thì hãy để qua một bên lòng, còn có ngày đắc nhập chớ chẳng không. Chớ nên nghi kỵ, bài bác, sự ấy làm cho mình chậm bước, lại còn tạo ta chung quanh mình những kẻ sẽ lầm lộn như mình.

PHƯƠNG TIỆN - Các nhà học Phật cần phải có cái đức bao quát nầy, tức là phương tiện. Nhiều khi ta phải xét người bằng cái đức ấy. Tu Phật, học Phật cũng tùy theo cảnh thế; mỗi người tùy hành cái phương thế tiện cho mình. Vậy các bạn hãy vì cái phương tiện mà rộng xét cho người. Đạo Phật xoay về bên Đại thừa thì không có bó buộc người ta vào khuôn mẫu, mỗi người có thể tự tạo ra một cách tu tập cho hợp với địa vị, thân thế, hoàn cảnh của mình. Miễn sao cho được tiến bước lên đường Huệ, Phước là đạt mục đích rồi. Bao người học Phật thấy chỗ phương tiện, bèn cứ giữ phận sự mình, cách sinh hoạt mình, trong lúc ấy họ vẫn lo trau dồi tâm tánh và giúp ích cho đồng loại, chúng sanh! Bởi thế cho nên bực xuất gia thong dong nơi am tự, vị cư sĩ nhàn lạc lúc tuổi già, đã đành là những người học Phật; mà viên quan thiếu niên đang bôn ba trên hoạn lộ, kẻ cày sâu cuốc bẩm dưới bóng trời hè, người thợ thuyền vất vả trong buổi khó khăn, cho đến kẻ sanh ra giữa lò thịt, tiệm rượu, lầu xanh... cũng có thể là những người học Phật được hết! Họ cũng tạo thêm công đức vô lượng vô biên, độ cho bọn người trụy lạc chung quanh họ. Vì phương tiện, họ không chê bỏ hoàn cảnh của họ. Như vậy cũng là cao thượng chớ sao ?

TỪ BI HỶ XẢ - Chúng ta còn phải cho những đức nầy thâm nhập ở tâm. Chẳng phải ăn chay giữ giới là đủ, mà phải nuôi dưỡng các đức Từ, Bi, Hỷ, Xả cho bám chặt vào tâm mình, thành ra bản tánh tự nhiên của mình. Như vậy, mình trông ra vũ trụ một cách thuần nhã, mình ngó lại chúng sanh một cách yêu thương, mình sẵn lòng mà khuyên dỗ và tha thứ cho người. Không tức bực về xã hội, lại còn lo bồi bổ những chỗ khuyết điểm trong xã hội, để giúp sự nhiêu ích cho chúng sanh, bao giờ mình cũng đưa tay ra mà nắm lấy tay người, để họ cùng bước lên đường lành, lại cầu cho họ bước mau tới trước mình là khác. Kìa gương đức Phật Thích-ca đã vui lòng hộ giúp cho bao người được thành Phật trước ngài! Và đức Văn-thù-sư-lỵ còn là ở địa vị Bồ-tát, song ngài đã từng giáo hóa, độ cho bao người khác thành Phật rồi!

Kẻ hèn này có những mối cảm tưởng ấy, xin nêu lên cùng độc giả các bài học Phật, và cầu cho ai nấy đều đắc nhập những đức: Dung hòa, Đức tin, Phương tiện và Từ Bi Hỷ Xả.


Kính tựa,

Đ . T . C

Source: rongmotamhon

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 10173)
Nhằm mục đích giúp cho những bệnh nhân vào thời kỳ cuối của bệnh ung thư sống những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời một cách thanh thản, bình yên về mặt tinh thần cũng như tâm linh trên phương diện y tế được đón nhận sự chăm sóc một cách toàn diện về thân thể, tâm lý và xã hội. Vào ngày 8 tháng 8 năm 1996 Bệnh Viện Đa Khoa Từ Tế Phật Giáo ở Hoa Liên Đài Loan đã thành lập "AN NINH LIỆU HỘ BỆNH PHÒNG"chuyên môn chăm sóc những bệnh nhân thời kỳ cuối của bệnh ung thư và được Ni Sư Chứng Nghiêm (người sáng lập Hội Từ Tế) đặt tên là "Tâm Liên Bệnh Phòng".
10/04/2013(Xem: 8763)
Ngài Huyền Trang là Cao Tăng đời nhà Đường. Ngài phụng mệnh Đường Thái Tông sang Ấn Độ thỉnh Kinh. Hành trình trên 10 năm thỉnh về hơn 650 bộ Kinh. Sau đó, Ngài đã cùng đệ tử dịch ra Hán Văn được 75 bộ gồm 1335 quyển. Đối với sự phát triển của Phật Giáo Trung Quốc. Ngài là một người có công rất lớn.
10/04/2013(Xem: 4402)
Vùng đất hiện nay được gọi là Mông Cổ cho mãi đến thế kỷ XIII mới có được lịch sử theo tư liệu văn bản. Vào khoảng thế kỷ IX-X, bộ lạc Khiết Đan (Kidans), một bộ lạc nói tiếng Mông Cổ, thành lập nước Đại Liêu ở miền Bắc Trung Quốc. Đến thế kỷ XI-XII, tất cả các bộ lạc Mông bước vào lịch sử được biết dưới các tên Nguyên Mông, Tartar, Kerait và Jalair; họ thường gây hấn và chém giết lẫn nhau cho đến khi một lạc trưởng tên Temudjin chinh phục và thống nhất tất cả, đặt tên chung là Mongol và tự xưng là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan).
10/04/2013(Xem: 4620)
Nhân một thiện duyên, chúng tôi đọc thấy một tài liệu ngắn giới thiệu một chương trình thu tập các tư liệu gồm các thủ bản và mộc bản quý hiếm đánh dấu sự hiện hữu của Phật giáo tại Mông Cổ từ khi đất nước này bắt đầu có sử liệu vào khoảng thế kỷ XIII. Đây là một lĩnh vực chúng tôi chưa học hiểu đến, nhưng cảm thấy tài liệu này có giá trị sử học và nghiên cứu, nhất là hiện tại còn rất ít thông tin về nền Phật giáo tại Mông Cổ, cho nên cố gắng lược dẫn tài liệu này để cống hiến độc giả NSGN và những ai quan tâm đến sự phát triển của Phật giáo trên thế giới.
10/04/2013(Xem: 5517)
Nhật báo Orange County Register hôm chủ nhật 19-1-2003 đã bắt đầu đăng phần thứ nhất trong loạt bài 4 kỳ về một tu sĩ trẻ Việt Nam -- 16 tuổi -- đang tu học trong 1 Phật học viện ở Ấn Ðộ của Phật Giáo Tây Tạng.
10/04/2013(Xem: 4784)
Trên tay tôi là 2 cuốn sách, một cuốn là Phật Giáo Khắp Thế Giới (Buddhism throughout the World) của tác giả Thích Nguyên Tạng, xuất bản lần thứ nhất năm 2001 tại Australia và cuốn kia là Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới của Thiền Sư Định Lực và Cư sĩ Nhất Tâm, do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Thông Tin in xong vào tháng 1 năm 2003 mà tôi vừa mới mua.
10/04/2013(Xem: 9852)
Quyển “Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới” (PGVNvTG) của Thiền sư [sic] Định Lực và Cư sĩ [sic] Nhất Tâm biên soạn [sic], được NXB Văn Hoá Thông Tin cấp giấy phép số 1715/XB-QLXB của Cục Xuất Bản ngày 11-12-2001, có mặt trên thị trường sách khoảng giữa năm 2003. Sách dày 632 trang, khổ 16x24 cm, được in trên giấy couche, bìa cứng, rất sang trọng. Sách được xuất bản theo dạng “đội mủ” của quyển “Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại,”
10/04/2013(Xem: 4934)
Cuối tháng 3 năm 2004, tại TP Hồ Chí Minh diễn ra một hội sách mang tính quốc tế với sự góp mặt của hầu hết các nhà xuất bản trong nước cũng như một số nhà xuất bản uy tín nước ngoài. Có thể thấy ngay được những cố gắng của nhà nước trong quản lý văn hóa, nhằm tôn vinh giá trị của văn hóa đọc, một kỹ năng luôn cần cho con người trong quá trình phát triển ở mọi thời đại. Ðiều này cũng nằm trong chủ trương xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc mà nhà nước đã và đang cổ súy.
09/04/2013(Xem: 22829)
Ngày nay, căn cứ các tài liệu (1) và các lập luận khoa học của nhiều học giả, giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
09/04/2013(Xem: 18628)
Năm 1957, chúng tôi tu học tại cao đẳng Phật học viện Srisumana Vidyalaya, đồng thời theo học trường Srisumana College, tỉnh Ratnapura, nước Srilanka. Theo Phật lịch thì năm 1957 là đúng 2500 năm tính theo tuổi thọ 5000 năm giáo pháp của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Chánh phủ Ấn Độ lần đầu tiên mở cửa cho các hành Phật tử trên thế giới được đến hành hương bốn thánh địa và những địa danh Phật tích chỉ trả nửa giá tiền trong các tuyến đường xe lửa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]