Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 3: Lối thoát độc nhất: 1952-1956

28/05/201311:30(Xem: 7663)
Chương 3: Lối thoát độc nhất: 1952-1956

77pgiaoucchau-cover

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ÚC ĐẠI LỢI

(History of Buddhism in Australia)

Nguyên tác: Paul Croucher
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng

---o0o---

Chương 3

Lối thoát độc nhất: 1952-1956

Natasha Jackson, chủ bút tạp chí hai tháng một kỳ “Metta” (Bi), là tiếng nói hàng đầu trong Phật Giáo Úc Châu từ 1955 tới 1971. Sinh năm 1902 ở Moscow, thủ đô của nước Nga, bà Natasha Jackson được bà mẹ cấp tiến, chống Nga Hoàng của mình đưa tới Úc vào năm lên sáu tuổi, Bà học ngành y tá và làm giáo viên, và gia nhập Đảng Cộng Sản (Communist Party)một thời gian ngắn trong thập niên 1930. Cuộc hôn nhân của bà lâu dài nhưng không hạnh phúc, và có lẽ vì vậy mà bà chú ý rất nhiều tới lịch sử và triết học. Là người biết nói chuyện một cách quảng bác, nhưng theo con trai của bà và những người khác thì bà không có nhiều kinh nghiệm thực tế về thế giới hàng ngày. Ba là người trí thức về mặt triết học, và không chấp nhận những việc không nghiêm chỉnh. Natasha Jackson dễ gây bất hòa, và lối cư xử thẳng thừng của bà gây ra liên hệ xấu giữa bà và nhiều hội viên của Hội Phật Giáo New South Wales.

77pguc-natasha-jackson

Năm 1953, Natasha Jackson tham dự một số buổi diễn thuyết của Ni Sư Dhammadinna ở Centre Club, đường George. Dù chỉ gặp Ni Sư Dhammadinna trong vài lần này, qua thời gian vị nữ tu đã trở thành gần như một thần tượng trong tâm trí của bà: “Nếu có người nào hỏi rằng tôi coi ai là nhân vật đáng ghi nhớ nhất mà mình đã gặp tôi sẽ trả lời ngay đó là Ni Sư Dhammadinna. Từ ngữ “charisma” hay sức thu hút người khác đã bị lạm dụng tới mức nhàm chán, nhưng dù từ ngữ này hàm ý tính chất gì đi nữa thì Ni Sư cũng có tính chất đó. Sức thu hút này không tùy thuộc vào vẻ bên ngoài, đức hạnh, trí huệ, hay tính kiên định, mà là sự dễ cảm mến. Ni Sư dù đã cạo đầu và không mặc y phục hợp thời trang nào cả, vẫn có một vẻ đẹp siêu phàm với nước da trắng sáng gần như trong suốt, thêm vào là đôi mắt xám đem màu đá phiến. Dù là người thành tâm tu học Phật Giáo, Ni Sư vẫn cò một chút vẻ ‘Femme fatal’, (người đàn bà nguy hiểm), mà là hoàn toàn không ý thức tới”.

Ni Sư Dhammadinna là người hùng biện, và trên hết là một phụ nữ, vì vậy đây là một sự giới thiệu Phật Giáo mạnh mẽ đối với Natasha Jackson. Sau đó, vì những lý do mà chúng ta sẽ thấy, bà đã hạ giá vai trò tiên phong của Leo Berkeley và Marie Byles và đặt ra huyền thoại Ni Sư Dhammadinna đã một mình đưa Phật Giáo tới bờ biển Úc Châu.

77pguc-Dhammadina

Đối với Natasha Jackson thì một phần quan trọng trong huyền thoại Dhammadinna là vị nữ tu này nói rằng mình đã từ chối thừa hưỏng một gia tài lớn để đi tu. Sự thật về phần đầu cuộc đời của Ni Sư Dhammadinna là một bí mật. Sinh năm 1881, có lẽ ở San Francisco, và có lẽ tên là Pearce hay Van Stemn gì đó, bà đã làm cho người ta tin rằng mình là người thừa kế một đế quốc dầu hỏa. Người ta nghe nói bà học ở Thụy Sĩ và ở Đại Học Sorbonne ở Paris, và sau đó lấy một nam tước người Nga, nguyên là một viên tướng trong quân đội của Nga Hoàng. Họ đã đi du lịch khắp Á Châu, và sau khi ông ta qua đời hoặc ly dị gì đó, bà trở thành một Tì khưu ni ở Thượng Hải. Gần như chắc chắn đây là chuyện dã sử, vì thật ra bối cảnh của bà có lẽ rất “trung lưu”, và lần đầu tiên bà tiếp xúc với Phật Giáo là qua những khóa Thiền của Nyagen Senzaki ở San Francisco, bắt đầu vào năm 1922. Người ta được biết là bà thọ giới với một vị thầy người Âu ở Thượng Hải vào cuối thập niên 1920. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ “Argus” ở Melbourne năm 1952, bà nói rằng vị thầy này là người Đức, và bà gặp lần đầu tiên năm 1928. Vị này chỉ có thể là Ignatz Trebitsch, có sự nghiệp rất nhiều thăng trầm được Holmes Welch kể lại trong cuốn “Phật Giáo Phục Hồi Ở Trung Hoa" (The Buddhist Revival in China).

Trước kia Ignatz Trebitch đã lần lượt là giáo sĩ thuộc các giáo phái Lutheran, Presbyterian, và Anh Giáo, nhưng công việc cả đời thực sự của ông là gián điệp quốc tế, mà rốt cuộc vào năm 1916 đã đưa ông vào một nhà tù ở Anh Quốc, trong ba năm vì tội làm giấy tờ giả. Năm 1925 ông được làm lễ thọ giới ở Tích Lan, và từ năm 1926, ông truyền đạo trong hai năm ở San Francisco. Có lẽ ông đã gặp Ni Sư Dhammadinna ở đây. Sau đó là đi theo vị thầy đến Thượng Hải, nơi ông thành lập một “Niệm Phật Đường”(Buddha House) ở Tô Giới Pháp, làm cố vấn cho một số tướng lãnh Trung Hoa, và viết những cuốn sách về những vấn đề quốc tế. Lúc này ông tự gọi mình là Triệu Công (Chao-k’ung). Năm 1933, ông đi khắc Âu Châu để truyền đạo và trở về với tám nữ và bốn nam đệ tử. Nhưng nhóm tu sĩ này dần dần tan rã, khi hai người tự tử, một người qua đời, và những người còn lại bị Trebistch đuổi đi trong những cơn nổi giận của ông. Trong số những người này chắc chắn có Ni Sư Dhammadinna. (còn tiếp).

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 5509)
Sự tín ngưỡng Phật giáo tại Ðài Loan bắt nguồn từ những di dân hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Ðông vào thời Minh – Thanh. Nhưng vào thời kỳ đầu này Phật giáo chỉ chú trọng đến việc cầu phước, tiêu tai, sự tu tập chủ yếu là của các cá nhân đơn lẻ, chứ chưa có những hoạt động mang tính Tăng đoàn ở qui mô lớn.
10/04/2013(Xem: 5063)
Một hiện tượng không bình thường đang dần phát triển trong giới Phật giáo Đài Loan, đó là việc ni giới Đài Loan mấy năm gần đây vận động huỷ bỏ “Bát Kỉnh Pháp”. Hiện tượng này do sư cô Thích Chiếu Huệ khởi xướng và ngày càng lan rộng, nhận định về hiện tượng này và tìm hiểu nguyên nhân mà nó phát sinh cần có cái nhìn toàn diện về xã hội và Phật giáo Đài Loan.
10/04/2013(Xem: 5657)
Từ ngày 18-27/05/2002, nhà lãnh đạo của Phật giáo Tây Tạng, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, sẽ viếng thăm các tiểu bang Canberra, NSW và Victoria. Ðây là chuyến viếng thăm Úc lần thứ 4 kể từ năm 1996 của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, chuyến viếng thăm của Ngài sẽ bắt đầu từ ngày 18, và kết thúc vào ngày 27 tháng 05 năm 2002. Các sự kiện chính sẽ được diễn ra tại bốn thành phố: Melbourne, Geelong, Canberra và Sydney.
10/04/2013(Xem: 4988)
Theo tin đài VOA, ngày 8/1/2002, đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố tại tỉnh Sanarth, Bắc Ấn, ngày nào mà Tây Tạng còn chưa được giải phóng, Ngài sẽ tái sinh vào những nơi đất nước tự do.
10/04/2013(Xem: 4496)
Các con số thống kê chính thức của viện Thống Kê Úc Đại Lợi cho thấy rằng trong 5 năm vừa qua, những người dân Úc Đại Lợi không tin vào Thượng Đế (vô tôn giáo) đã giảm đi. Điều không thể chối cãi là các tín đồ Ki-Tô tiếp tục giảm sút nhiều hơn đối với đạo Anh Cát Giáo và đạo Nhà Thờ Hợp Nhất (Uniting Church), còn đạo Thiên Chúa La Mã bị giảm tượng đối ít hơn. Trong khi đó số người tự coi là vô thần giảm đi hơn là con số của năm năm về truớc. Vào năm 2001 chỉ có hơn 15% dân số bị xếp loại vô tôn giáo, so với 16.5% vào năm 1996. Các tôn giáo có tín đồ gia tăng là đạo Hồi và đạo Ấn, vì lý do di dân.
10/04/2013(Xem: 5041)
Kênh truyền hình Địa Dư Quốc Gia (National Geographic Channel) đã cho trình chiếu trong tháng 5/2002 vừa qua một loạt phóng sự (Mummy Road Show) về các xác ướp cận đại còn giữ gìn đuợc tốt. Chương trình nghiên cứu này do hai chuyên gia về xác ướp là ông Jerry Conlogue và Ron Beckett thực hiện.
10/04/2013(Xem: 4953)
Tin 1 triệu người thuộc giai cấp cùng đinh của Ấn Độ từ bỏ Ấn giáo, quy y Tam Bảo tại viện Ambedkar, thủ đô Delhi Ấn Độ, đã tạo ra cơn sửng sốt cho các đảng lãnh đạo Ấn giáo của chính phủ Ấn Độ và gây chấn động khắp thế giới. Thanh Tâm đã phỏng vấn đại đức Thích Nhật Từ, tu sĩ Việt Nam duy nhất tham dự đại lễ quy y này.
10/04/2013(Xem: 5359)
Để hiểu rõ thêm về vai trò lịch sử trọng đại của Hoàng Đế Asoka không những đối với dân-tộc A?, mà còn đối với nhân loại qua sự truyền bá Phật giáo đến các nước khác, ta nên ôn lại đôi chút về bối cảnh lịch sử A? độ đương thời.
10/04/2013(Xem: 4927)
Hiện nay có khá nhiều bản dịch ra Anh ngữ về những Pháp dụ của Vua Asoka vốn được viết bằng tiếng Brahmi (Prakrit). Bản dịch Việt ngữ này đã dựa vào 2 bản Anh ngữ phổ thông nhất và được nhìn dưới 2 góc độ tiêu biểu: 1). Giới hàn lâm, của các tác giả Nayarayanrao Appurao Nikam và Richard McKeon thuộc Viện Đại học Chicago, ấn hành năm 1959 (Viết tắt "Bản Nikam") và 2).
10/04/2013(Xem: 4800)
Trung Quốc trải qua 10 năm đại nạn "đại cách mạng văn hóa", Phật giáo đứng mũi chịu sào, tự viện bị chiếm, Phật tượng bị đập phá, tăng ni bị trục xuất khỏi chùa. Cho đến vào khoảng thập niên 70, nhà nước thực hành cải cách đổi mới, bắt đầu toàn diện quán triệt thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự viện lần lượt khôi phục sinh hoạt tôn giáo, tăng ni xuất gia càng ngày càng đông, nhưng tăng tài của Phật giáo lại quá hiếm hoi, không đủ người kế tục sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, tiếp dẫn hậu lai, làm sao có thể thay đổi được vận mệnh của Phật giáo ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]