Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bi Khấp Cung Tán Tôn Sư (Hòa Thượng Thích Giải Quảng, 1944-2024)

09/01/202508:52(Xem: 269)
Bi Khấp Cung Tán Tôn Sư (Hòa Thượng Thích Giải Quảng, 1944-2024)

ht thich giai quang (65)

BI KHẤP
CUNG TÁN TÔN SƯ
(Hòa Thượng Thích Giải Quảng, 1944-2024)


 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,

Kính lạy Giác Linh Tôn Sư,

 

Hỡi ôi,

Rằm tháng mười Quảng Hiệp buồn dư lệ,

Tân Hiệp u hoài mưa lạnh phủ mờ giăng.

Quảng Phước đau sầu như chéo vành khăn,

Giữa đêm đông đất Đồng Nai thổn thức.

Thầy đi rồi đây là sự thực,

Hay chỉ là tia chớp của sao băng?

Đây phút vô thường đang đến phải chăng?

Trời đất vỡ oà trong từng hồi da diết.

Biển Lý Sơn đang rì rào nước biếc,

Khóc âm vang như tiễn biệt người thân,

Hải Lâm buồn cung bái bậc Chân nhân,

Chốn Tổ Thọ Sơn đang ngậm ngùi thương tiếc.

Con vẫn biết giữa dòng đời sanh diệt,

Phút chia ly không thể tránh ở đời.

Nhưng lệ buồn cứ ào ạt tuôn rơi,

Trong tâm khảm như vỡ tan từng mảnh.

Thầy tự tại trong chơn thân bậc Thánh,

Giữa dòng đời bao ố trược huyễn hư.

Người đến từ cội thể Chơn Như,

Và trở lại với Uyên nguyên bản thệ.

Giữa đêm buồn của hàng hàng môn đệ

Đang đau thương quặn thắt tận trong lòng

Và từ đây phải sống cảnh cô phong,

Vắng bóng Thầy giữa cõi Hồng tục lụy.

 

Nhớ Giác Linh xưa,

Mồng ba tháng giêng mùa xuân nơi hải đảo,

Người khánh sanh giữa non nước hữu tình.

Chốn địa linh bậc hiền sĩ hiện sinh,

Năm Giáp Thân một danh Tăng xuất thế.

Dòng Trương gia của bao thế hệ,

Đình Ân anh tài đúng bậc văn nhân.

Được duyên lành từ kiếp trước Song Thân,

Đức độ hiền lương người người yêu mến.

Nghiêm phụ Trương Hiển pháp danh Như Tuệ,

Nguyễn Thị Hãnh mẹ hiền Như Nguyện pháp danh.

Từ thuở nhỏ khí chất tinh anh,

Hiếu thảo chuyên cần thông minh đúng mực.

Nhân duyên nhiều đời in sâu trong tàng thức,

Cùng Song Thân về chốn cửa Thiền.

Chùa Hải Lâm hội đủ nhân duyên,

Hạt giống Phật từ đây bén rễ.

 

Nhưng than ôi,

Thuở ấu thơ mới vừa mười tuổi,

Nước mắt tuôn trào khi Thân Phụ ra đi.

Giọt lệ sầu chưa kịp ráo hoen mi,

Người Mẹ Hiền cũng rời xa dương thế,

Mười bốn tuổi cảnh mồ côi cô phận.

 

Để rồi,

Ngước mắt nhìn với biển xa vô tận,

Cảm nhận cảnh đời giữa biển khổ trùng khơi.

Nhân duyên Phật lại đến với đời,

Sư Ông Khánh Tín dắt dìu Thầy vào đạo.

 

Lánh trần duyên với bao huyên náo,

Ba năm liền Thầy nỗ lực tinh chuyên.

Thọ Sơn Tổ Đình đầy đủ nhân duyên,

Năm Tân Sửu (1961) lễ Quán Âm Đại Sỹ,

 Mười chín tháng hai Thầy xuất gia tu học

 

Và từ đây,

Chú Tiểu Như Nghĩa sớm kệ chiều kinh,

Vốn bẩm chất thông minh cùng tinh cần không nệ.

Quy cũ thiền môn nội điển lần lượt am tường,

Ngoại khóa học đường cũng muôn phần xuất sắc.

 

Chân trời tham học du phương cũng từ đây mở lối,

Chùa Tịnh Quang Liên Chiểu Đà Thành, (1965)

Hòa Thượng Tịnh Giác dìu dắt thêm nhanh,

Học Viện Phổ Đà thẩm sâu kinh luận.

 

Bốn năm liền tới năm sáu chín (1969)

Sa di giới đàn tại Quảng Ngãi quê hương,

Khánh Tín Bổn Sư Đàn Đầu Hòa Thượng,

Giải Quảng pháp tự Thầy được ban từ đó.

 

Thầy tiếp tục Nam phương cầu học,

Đất Sài Thành nơi ngọa hổ tàng long,

Bao gian truân nhưng vẫn cứ dặn lòng,

Nếp sống thanh bần giữa phố phường đô thị.

 

Thầy nương được bậc Cao Tăng kỳ vĩ,

Trí Thủ Đại Sư danh tiếng của ngàn đời.

Quảng Hương Già Lam, lưu xuất bao bậc Thiền Tăng rạng ngời dòng sử Phật,

Vạn Hạnh Học Đường, sản sinh vô số Hiền Sĩ vang danh giống Lạc Hồng.

Quý Sửu (1973) Phước Huệ Tuyển Phật Trường, Phúc Hộ Đại Sư Đàn Đầu Hòa Thượng.

 

Thầy tiếp nối đời bốn mốt Lâm Tế Chúc Thánh Chánh Tông.

 

Ẫn nhẫn thay,

Mặc cho thời cuộc thế sự nhiễu loạn muôn phương,

Hải Lâm quê hương tiếp tục con đường truyền ánh đạo.

Thọ An bữa sắn bữa khoai tĩnh tọa công phu giữa sơn khê thanh vắng,

Bình Sơn chuối rừng rau dại vang vọng lời kinh trong rừng độc thâm sâu.

Thầy tạo nhân duyên Phật pháp tiếp nối nhịp cầu,

Cho bao tâm hồn cô liêu tìm lại bình an của phận đời phiêu bạc.

 

Lại lần nữa Quảng Hương Già Lam hội tụ

Dốc lòng nghiên tầm giáo nghĩa huyền vi

Nhưng đành thôi cũng phải phân ly,

Ngày tám tháng năm, năm Giáp Tý (1984)

 

Cung kính thay,

Một bát ba y tâm nguyện đền đáp Phật ân không thối chuyển,

Năm xe muôn pháp thân hành tiếp nối Tổ đức chẳng thiên di.

Đêm tối Sài Gòn đô thị phồn hoa lặng lẽ bước đi,

Long Thành một góc quê nhà đang hướng tới.

Quảng Phước cốc lá đơn sơ khai mở thiền cơ gìn mối đạo,

Quảng Hiệp am tranh bé nhỏ vun bồi tài đức độ nhân sinh.

 

 

Quản ngại chi,

Đào giếng sâu thăm thẳm tích nhặt từng giọt nước tựa thể cam lồ,

Cuốc rẫy ban nương lao nhọc gian truân nào đâu nề hà gian khổ.

Chuông mõ sớm tối kệ kinh quy cũ thiền môn một lòng gìn giữ,

Từ ái khiêm cung luôn mở lòng dìu dắt người thoát khỏi mê tân.

Trên từng con đường nắng mưa gió bụi bao lần,

Chiếc xe đạp cộc cạch mệt nhừ rồi chiếc xe máy gần như phế liệu.

Than vãn chi đâu, khi mỗi lần dắt bộ Thầy chỉ cười xòa.

Dù cho bao lần tai nạn, nắng táp mưa sa, không hề nản chí,

Hơn ba mươi năm trên muôn vạn nẻo đường truyền trao Phật pháp:

Biên Hòa, Vũng Tàu, Sài Gòn, Sông Bé,

Quán Âm, Bát Nhã, Niết Bàn, Từ Nhãn, Phật Ân,

Liễu Đức, Phước Hải, Phước Lạc, Phước Hoa cho đến Thiện Hòa…

Giáo Trình Phật Giáo Sử, Hán Ngữ, Giảng Giải Pháp Hoa

Bảo Huấn Thiền Lâm, Phật Học Phổ Thông, Trung Đẵng, Đông Tây Kim Cổ…

Tận tụy truyền trao giáo nhơn bất quyện.

Thầy thường nói: “ngước lên hổ thẹn bốn ơn chưa báo,

Cúi xuống thương cảm ba đường” mang nặng sầu vương.

Tiếp dẫn hậu lai là hạnh nguyện miên trường.

Nào dám lơ là sợ cô phụ tấm lòng Tổ Thầy ân đức.

 

Vi diệu thay,

Suốt bốn mươi năm gắng bao sức lực,

Từ mái tranh vách đất thô sơ một thân cô quạnh lẻ loi,

Quảng Hiệp giờ đây trang nghiêm với bốn chúng đủ đầy thiền môn nghiêm tịnh.

Hơn hai mươi pháp tử được ơn đức Thầy dốc lòng chăm lo Phật sự khắp chốn đó đây.

Bốn mươi năm kiến tạo Quảng Hiệp, Quảng Phước thân thương,

Mặc cho bao nỗi đoạn trường thịnh suy biến động.

Thầy vẫn tự tại an bần thủ đạo, khổ hạnh, không chút xa hoa.

Đôi dép nhựa tổ ong, bộ đồ vải kham khổ nâu sòng.

Tấm cà sa trải qua bao giông tố và cát bụi thời gian,

Bạc màu cũ kĩ hoại sắc phai màu, nhưng Thầy vẫn quý trọng muôn phần tấm y giải thoát.

Thậm chí Hương thất Thầy ở, từ lúc khai mở Quảng Hiệp đạo tràng,

Bao nhiêu lớp lá phủ đầy, bao sóng ba đào thế nhân phủ lấp,

Thầy vẫn thản nhiên, dù trải qua bốn mươi mùa nắng nóng mưa sa.

Thấp thoáng đâu đây ở cõi ta bà,

Bóng dáng thân hình của Tổ Sư cao đức.

 

Kính tiếc thay,

Khi biết thân giả huyễn không còn bao lâu nữa,

Thầy ân cần nhắc nhớ môn sinh,

Từng lời Thầy trao thắm đượm từ bi của bậc Thầy cao cả.

Dù cho thân tứ đại sắp hồi tan rã.

Vẫn điềm nhiên tĩnh tọa công phu.

Thầy còn di bút Đâu cần ti vi tủ lạnh xe hơi nhiệt độ điều hòa

Cơm canh ngày ba bữa ấm lòng giữ vững trượng phu khí tiết.

 

 

Cung kính,

Đúng giữa đêm Mạnh đông Giáp Thìn u tịch,

Vạn vật im lìm thương tiếc Cội Tùng nghiêng.

Tứ chúng khóc thương, hoa chùa ngấn lệ, Thầy nhẹ bước quy Tây.

Tám mươi mốt năm hành trình một cuộc lữ Hạnh Nguyện vuông tròn.

Năm mươi hai năm hạ lạp, điểm son Thánh ký lưu truyền hậu thế.

Vẫn biết “chim bay trên không, nào muốn để chi dấu tích

Nhưng ân đức hạnh trạng Thầy sẽ còn mãi với ngàn sau.

Tứ chúng chắp cao đôi tay chí thành với lời kinh trầm mặc.

Kính cẩn cúi đầu đảnh lễ cung tiễn bậc Minh Sư.

Kính mong từ cõi Tịnh Như, Giác Linh Tôn Sư thùy từ chứng giám.

 

 

Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát ma ha tát.

 

Quảng Hiệp tự, đêm 17 tháng 10 năm Giáp thìn (17/11/2024).

Pháp tử Thích Thị Lạc, tự Hạnh Phẩm

Cẩn bút.

ht giai quang-9ht giai quang-8ht giai quang-7ht giai quang-6ht giai quang-5



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 8122)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8199)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 5298)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37573)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6277)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6236)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5849)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5735)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 6003)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5530)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]