Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Văn Cúng Lễ Đại Tường Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Giải An, Trụ Trì Chùa Từ Quang, Quảng Ngãi

09/05/202407:34(Xem: 2596)
Văn Cúng Lễ Đại Tường Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Giải An, Trụ Trì Chùa Từ Quang, Quảng Ngãi
ht giai an-11 (2)
VĂN CÚNG LỄ ĐẠI TƯỜNG
TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH GIẢI AN
TRỤ TRÌ TỪ QUANG – QUẢNG NGÃI
Đức Tăng Thống Thứ Tư GHPGVNTN là Pháp Hữu LINH SƠN
Cốt nhục của THẦY TÔI. Mối tình Pháp hữu ấy thực hi hiếm.


Nhị vị canh cánh bên nhau suốt cả cuộc đời. Nhị vị cùng tòng học với Ngài BÍCH LIÊN ( Bình Định) rồi nhị vị dấn thân ĐEM ĐẠO VÀO ĐỜI , mỗi vị mỗi phong cách, mỗi vị một vị thế khác nhau, nhưng mỗi vị đều trung trinh lý tưởng : Coi việc phụng sự Phật pháp như là việc Nhà ( Hoằng Pháp vi gia vụ ) Nhị vị trọn đời trung trinh “ Thượng cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sanh.

Khi Thầy Tôi viên tịch, Đức Đệ Tứ TĂNG THỐNG Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng HUYỀN hạ Quang, dù bị cấm cố tại một am thất nhỏ ở huyện Nghĩa Hành, nhưng Ngài quyết hiện diện tại TỪ QUANG TỊNH TỰ, từ đầu chí cuối, Ngài quan chiêm chu đáo tất cả nghi diên môn sinh tứ chúng cúng dường một DANH TĂNG CAO ĐỨC xứ sở ẤN TRÀ. Lời cảm niệm duy nhất trước Kim quan Trưởng Lão Thượng GIẢI hạ AN, Ngài Huyền Quang nói : “Nơi một Thánh Tăng nằm xuống thì nơi đó sẽ trở thành LINH ĐỊA, THÁNH ĐỊA”. Lời Ngài tiên cảm đã trở thành hiện thực... Sau hơn 20 năm đức Trưởng Lão NHƯ BÌNH- HUYỀN TỊNH quẩy dép về Tây,ngày nay lễ Húy nhật 20 tháng Giêng hàng năm đã trở thành ngày LỄ HỘI..


hoa thuong giai anht huyen quanght giai an-11 (7)ht giai an-11 (6)ht giai an-11 (5)ht giai an-11 (4)ht giai an-11 (1)ht giai an-6ht giai an-4ht giai an-3
ht giai an
Đệ tử Hạnh Phương và Sư Phu Giải An



Chư Tôn Đức Tăng Ni, quý nam nữ tín đồ lão ấu PG Quảng Ngãi, cứ đến ngày ấy đều cung kính vân tập về chùa TỪ QUANG, phụng cúng, lễ bái, tưởng niệm giác linh đức Trưởng Lão Khai sơn TỪ QUANG ĐƯỜNG THƯỢNG.
Bài Văn cúng nầy là của Đức Ngài HUYỀN QUANG riêng soạn cho THẦY

TÔI. Tôi xin phép coi đây là một tác phẩm VĂN HỌC TÂM LINH, mà tôi có diễm phúc sở hữu... Nay xin mạn phép công bố để bảo lưu, để quảng bá...Giá
Trị tác phẩm tâm linh duy nhất, do đó,thiết tưởng cần thiết công bố để đại chúng, công chúng, quần chúng.... cùng chung lòng trợ giúp chúng tôi bảo lưu quảng truyền tác phẩm nầy . Trân trọng cung hiến.
Nam mô Hoan hỷ tạng Bồ Tát ma ha tát.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Kính bạch Từ Quang khai sơn Bổn sư Hòa Thượng giác linh!
Chúng con cung kính nghĩ rằng:
Người, cùng Tổ ngộ lòng thiền
Trong cửa Thọ Sơn, vâng lời thọ ký
Và, vì Người khai Phật trí,
Ngoài thành Quảng Ngãi dựng nghiệp độ sanh!
Nhớ giác linh xưa:
Người là non nước tinh anh,
Trăng sao tú khí,
Tào Khê pháp thủy
Thiếu thất thiền đăng
Chơn truyền y bát đại Tăng
Chánh thống ấn tâm Trưởng lão
Thế gia trụ trì Tăng bảo
Thiên hạ nhàn tản Đạo Nhơn
Khi thiếu thời:
Người nhập đạo lúc tuổi đồng chơn
Và đăng đàn (thọ giới) khi năm niên tráng
Người trau dồi tuệ mạng,
Từ đó theo Thầy học đạo chuyên cần
Và trưởng dưỡng giới thân,
Tùng chúng tu tâm tinh tấn,
Vuông tròn bổn phận, phục dịch chúng Tăng
Đầy đủ khả năng, dắt diều Phật tử
Vì vậy, Người được thầy tổ truyền y bổ xứ,
Và tại quê nhà, Từ Quang trác tích trụ trì
Rồi từ đó, Người sống cuộc đời:
Một bát ba Y
Xuân thu du hóa,
Chín tuần mười hạ
Năm tháng tịnh tu
Vì vậy mà Người:
Có nhiều Tăng Ni bốn chúng tùng du,
Và không ít Phật tử mười phương tín ngưỡng.
Thật vậy, khi trưởng thành:
Người xứng ngôi tòng lâm trưởng thượng,
Và, đáng bậc Giáo hội Cao Tăng
Cũng giống dòng Minh Hải, Côn Bằng
Và con cháu Tổ đình, sư tượng,
Đường đường Tăng tướng,
Nghiễm nhiên mày mặc chủ nhân
Hạo hạo Pháp thân,
Tư tại oai nghi thọ giải.
Người, sống đời vị tha vô ngã
Tiếp chúng độ tăng,
Hạ hóa thượng hoằng.
Đãi nhân tiếp vật.
Nghĩa Bình giới đàn
Thập sư đệ nhất,
Quảng Ngãi bố tát,
Đại chúng vi tiên
Người từng nhập thất Bích Liên
Và đăng đường Vĩnh Khánh ( Bình Định )
Phương bào viên ảnh
Tích trượng cà sa,
Một bát nghìn nhà
Cô thân muôn dặm,
Lợi danh không đắm
Địa vị chẳng cầu
Chướng cạn tuệ sâu
Phươc sanh nghiệp diệt !
Hơn thế nữa :
Người ngộ lý : Hoa hồng trúc biếc
Người nhớ câu : Mây trắng hạc vàng.
Đạo nghiệp Người : dường đã gần hoàn,
Báo thân Người : Sao mà sớm mãn!
Và việc phải đến đã đến,
Thật vô khả nại hà !
Kính bạch giác linh Trưởng Lão TỪ QUANG !
Anh tử phải đâu thường, đoạn
Niết bàn há lại thật, quyền.
Biết đâu Người ;
Phật quốc hóa duyên,
Ta bà ứng cúng.
Nên chi Người :
Đông Độ treo bình tứ chúng,
Tây Thiên quảy dép theo thầy.
Than ôi ! Xe gió đường mây,
Tìm đâu cánh hạc?
Tràng phan lầu các
Thấy đâu chân trời ?
Núi Ấn tiếc thấy hoa rơi,
Sông Trà thương nghe nước chảy,
Hiện, tàng then máy
Còn mất mơ màng
Người ở đâu trong thế giới ba ngàn,
Người là ai trong chúng sanh vô lượng?
Và chắc Hòa Thượng cũng đã biết ;
Pháp thân phi tướng,
Vốn không sống, chết, bịnh , già,
Chánh nhăn vô hà,
Nào có ngã, nhân, chân, giả.
Pháp ngữ :
Vì vậy mà:
Ngỡ ngàng nghe Đạo Sanh hỏi đá
Ngạc nhiên thấy Phật Tổ cầm hoa,
Thế nhưng, tùy duyên du hóa ta bà
Nhưng rồi,thuận xả thu quang Phật quốc.
Ôi ! Thôi thôi!
Người xa rời Thích tộc, từ giã thiền gia
Thỏ lặn ác tà, sao dời vật đổi
Biết bao băn khoăn bối rối !
Chi xiết mất mát tiếc thương!
Giờ thì chúng con biết làm gì đây !?
Chỉ biết báo hiếu bằng nén tâm hương,
Thù ân với lòng cầu nguyện,
Mộc mạc lễ văn cung tiến
Linh thiêng từ mẫn xin nghe :
Nam mô TỪ QUANG khai sơn bổn sư, nối dòng pháp Lâm Tế
Đời thứ 41, húy Thượng NHƯ, hạ BÌNH, hiệu GIẢI AN, tự HUYỀN TỊNH
Đại lão Hòa Thượng giác linh tác đại chứng minh !
Phục nguyện :
Khinh an một mảnh di hình
Sen trắng nghìn thu an nghỉ
Giải thoát sáu đường hệ lụy
Đài vàng muôn thuờ tiêu dao.
Chỉ tiếc rằng :
Từ đây khó tìm dáng dấp âm hao
Mà chỉ thấy mộng mơ vọng tưởng,
Hương xông phương trượng
Trăng rọi trường tòng,
Thấy bóng chạnh lòng
Nghe hương xót dạ !
Kính bạch Hòa Thượng Giác linh !
Cũng từ đây:
Kinh song vắng câu “giá cá”
Thiền thất im tiếng “thậm ma”
Ai trì Diệu Pháp Liên Hoa ?
Ai tụng Ma Ha Bát Nhã ?
Nhưng, Người dù ở hay đi, chúng con mong :
Người gia hộ cho chúng con :
Giữ gìn cơ cao nghiệp cả,
Kế thừa Tổ pháp tâm truyền,
Nghĩa huyền Lâm tế miên diên,
Yên Tử TRÚC Lâm phat triển,
Đến đây, hiếu lễ cử hành
Lưu luyến lòng càng xúc động
Âm nhạc mấy lần trầm bổng
Trống chuông ba hội ngắn dài\
Song lâm đưa Phật mọt mai
Chích lý, tiễn thầy muôn thuở.
Người đi kẻ ở
Quê cũ cõi xa ...
Niết bàn tịch diệt người qua,
Tổ quốc trần ai chúng ở
Mai chiều trông nhớ
Sớm tối lửa hương.
Công ơn trời biển khôn lường
Đền đáp tóc tơ nào kể
Chau mày rơi lệ
Rẽ bước phân kỳ,
Nại hà! Trường đình ngại bước đưa đi
Bất dĩ ! Thiên cổ lỡ tay bái biệt !
Giờ nầy, hương hoa la liệt,
Phan cái huy hoàng
Nghi trượng nghiêm trang
Nguyện cầu thành kính
Tôn túc giáo đoàn họ Thích,
Tăng ni pháp phái nhà thiền,
Tất cả khế thủ linh tiền
Tất cả cúc cung tọa hạ
Ngậm ngùi từ tạ
Nay kính bái thỉnh.

Nam mô Nhất tâm phụng thỉnh ( Theo lòng long vị đã ghi đủ danh hiệu
Giáo phẩm của Trưởng lão Hòa Thượng )
Quảng Ngãi, ngày 20 tháng 02 năm 2005
Phật lịch 2548.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/02/2013(Xem: 7690)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 6508)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 5963)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 6525)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 7116)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 6930)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 11133)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 6190)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 6755)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
21/09/2012(Xem: 10815)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh. Thân hình Ngài có những đặc điểm khác thường, nhất là có màu vàng, nên được vua cha đặt cho biệt hiệu là Phật kim.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]