Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

"Nhớ Về Thầy Mãi Mãi Khắc Ghi" (Kính tưởng niệm Sư bà Khánh Long)

24/03/202407:29(Xem: 1687)
"Nhớ Về Thầy Mãi Mãi Khắc Ghi" (Kính tưởng niệm Sư bà Khánh Long)

su ba khanh long
su ba khanh long- (2)su ba khanh long- (3)
"Nhớ Về Thầy Mãi Mãi Khắc Ghi"

(Kính tưởng niệm Sư bà Khánh Long)

1/ Từ năm 1990 thầy bổn sư (thầy thế phát xuất gia Hoà Thượng Thượng TRÍ hạ YÊN) dẫn chúng con vào Chùa Khánh Long Q4 TPHCM đê đầu y chỉ cầu pháp nơi Thầy (Ni Trưởng Thượng Tâm Hạ Hoa) để nương đức thầy ni tu học.

5 huynh đệ chúng con gồm: chị Tâm Như, Tâm Tuyền, Tâm Thành, Tâm Nguyện và con được gửi bên chùa Khánh Long, còn chị Chúc Diệu, Chúc Tánh gửi sang bên chùa Bồ Đề.

Kể từ đó, Thầy đã che chở dạy dỗ dắt dìu cho chúng con.
Lúc đó con được thầy nhờ cô Hạnh Minh có quen cô giáo dạy trường Khánh Hội giúp hồ sơ chuyển trường từ Ayunpa lên TP để cho con nhập học từ lớp 8 vào lớp 9.

Hằng ngày với cái chóp cỏn con và chiếc xe đạp cùn đi học từ chùa Khánh Long đến trường Khánh Hội A đường Nguyễn Thần Hiến. Chiều đi học về, bỏ cặp táp sách vở vào phòng rồi bạch thầy:”con đi ra chợ hoá duyên”.
Đó là công việc của con mỗi ngày đều ra chợ hoá duyên xin rau củ quả về cho cả đại chúng sinh hoạt.
Cứ mỗi chiều từ 5:00-6:00 là con hay chở cả xe đạp chất chồng lên rồi đẩy bộ về.
Chợ Xóm Chiếu, chợ Cầu Cống và rẽ vào hẻm 132/29 là về đến chùa.
Ngày nào cũng như ngày nào đều là công việc của con.

Lúc đó con còn để 1 chóp trên đầu, nên đi học hay ra ngoài đường thậm chí quý Phật tử thường xuyên về chùa dự khóa lễ tịnh độ, ai ai cũng đều xoa rờ tóc 1 chõm của con.

Nên ra chợ các cô chú bác anh chị ai ai cũng đều thương và họ cúng rất nhiều rau mang về.
Con chỉ nói: “cô ơi hôm nay có gì cúng chùa không cô”? Thế là có những cô bán cà chua, dưa leo, xà lách vvv họ bán thứ gì là cúng thứ ấy để con nhận chở về.

Thậm chí có những trái cà chua dập nát, hoặc bắp cải hư vẫn phải nhận. Vì nếu mình từ chối lần khác họ sẽ không cho nữa.
Do đó con chở về, thầy cùng quý chị em xuống bếp phụ cắt gọt phần nào ăn được thì để lại, phần nào hư thối thì vứt phân loại liền chứ không e ngại để qua hôm sau sẽ úng thối nhiều hơn.

Thầy rất tiết kiệm và bòn phước. Lúc nào cũng ân cần chỉ bảo cho chúng con và huynh đệ trong chùa: “ Con ơi! mình là người tu, từ chiếc áo đến mạng sống đều nhờ sự cúng dường của đàn na tín thí nên tuyệt đối không được sử dụng phí phạm”.
Cứ mỗi lần dùng cơm xong thầy tự mang chén và đôi đũa, chiếc muỗng của thầy đem đi rửa.
Thầy tự giặt đồ của thầy, thầy không cho bất kì huynh đệ nào giặt cả.
Sáng đánh răng xúc miệng thầy dùng chiếc ly bằng Inox thời pháp thuộc mà thầy vẫn còn sử dụng. Chỉ đúng 2 lần ly nước thế thôi.
Với chú điệu còn chõm đi học phổ thông cấp 2 nên mỗi lần họp chúng, thầy đều đặc cách cho con chỉ đi hoá duyên đem rau củ quả về cho đại chúng sinh hoạt.

2/ Con vẫn còn nhớ, lúc thầy trò còn ở chùa cũ, mỗi khi mưa đến, thầy trò thay phiên nhau thau xô đi hứng những nơi bị mưa dột.
Mỗi khi mưa bão, nước từ các ống cống dội lên, nước từ những nhà hàng xóm ngập vào thầy trò phải đi lấy gáo múc bưng đổ, lấy cây lau đẩy nước ra ngoài.

Ngày xưa địa lí quận 4 gần bến cảng nhà rồng, giữa các phường có những con kênh, con sông áo hồ khá nhiều. Do đó hễ mưa xuống lúc nào cũng bị ngập lụt.

1 năm sau con thi chuyển cấp và lúc đó chùa cũ tháo gỡ để xây dựng đưa chánh điện lên lầu để khỏi bị mưa dột. Thầy, sư chú Tâm Quả, cô Hiền, cô Thuần, chị Hiệp …. và các chị em trong chùa đi xin Xà bần (mảnh gạch men vỡ) đẩy xe ba gác về đổ nền cho cao để khỏi bị ngập lụt.
Ngày đó các chị em trong chùa vui lắm bạch thầy. Xoắn áo xoắn quần đeo găng tay trộn hồ (ximăng), đẩy xe cát xe đá xe xi măng từ tuốt ngoài đường Nguyễn Tất Thành đẩy vào sâu hẻm của chùa để các chú thợ có vật liệu xây dựng.

Vì chùa không có kinh phí nên hầu như việc nặng việc nhẹ đều ni chúng trong chùa bỏ công sức để làm.
Nào là se nhang, nào là làm đồ chay bán, nào là làm bánh trung thu, tết đến xuân về làm bánh in bánh oản, bánh tét, bánh chưng, chả chay vvvv quý Phật tử mua ủng hộ cho chùa khá nhiều. Đến độ chưa đến 27 Tết nhà chùa đã phân phối hết hàng Tết do chính bàn tay ni chúng trong chùa dồn tâm làm.
Địa lí Q4 nền đất rất yếu nên phải đóng cọc xà cừ khá nhiều. Chùa Khánh long thuộc chùa cổ có có đài cửu long bằng đồng đen và có 9 pho tượng đưa lên lầu 2 và cũng đem hôm đó ăn trộm vào đánh cắp 9 pho bằng đồng đen.
Từ đó thầy lên lầu 2 phòng khách ngủ vừa canh công trình.

Mỗi tối con thường được thị giả hầu thầy nên lên lầu 2 ngủ sát bên để thị giả. Lúc đó con phải thức khuya ôn bài để thi chuyển cấp. Con vừa học bài vừa ngủ say sưa nên đèn dầu ngã ra hồi nào không hay biết và cháy phực mùng ngủ của con, rồi cháy lớn mạnh qua bên mùng sát bên mà thầy đang ngủ.
Chùa có hộ pháp. Lúc đó hơn 1:30 khuya, chú Trúc cháu ruột của thầy, chú đi vệ sinh đêm, chú thấy đám cháy lớn quá và chú dập tắt liền lúc đó.
Con thì rất lo cho thầy và cái y của thầy vắt lên kệ ghế salon, còn thầy thì lo cho con và nói chóp của con có sao không.
Tình thầy rộng lớn đại dương.

Thầy lúc nào cũng ân cần dạy bảo cho chúng con. Mỗi tối sau thời khoá tịnh độ thầy hướng dẫn chúng con lên lầu 3 sân thượng có Quan Âm Cát, thầy sướng lễ 12 danh hiệu Quan Âm và trì danh hiệu ngài đến 30 phút, sau đó mới xuống phòng nghỉ ngơi.

3/ Cuối cùng con cũng đậu vào trường PTTH Nguyễn Trãi đường Nguyễn Tất Thành nối dài gần sau chùa Khánh Long. Các bạn bè trong trường đi học về và ghé nhà cô Giáo NHUNG dạy toán học kèm thêm môn toán, nhà cô Nhung cách chùa 7 căn nhà nên bạn bè mỗi khi học kèm xong đều ghé chùa lạy Phật xuống bếp ăn cơm, thầy còn cho nhiều trái cây và dưa leo củ xắn, cóc xoài ổi... cho bạn bè lớp con lên sân thượng giao lưu.
Trong lớp còn có cô bạn Chúc Hiếu cũng là ni chúng chùa Bồ Đề nên thầy rất an tâm khi có người tu sỹ cùng học chung.

Con đậu Đại Học vào năm 1996 lúc đó thầy rất tự hào về con về những gì mà cố gắng nỗ lực. Thầy cho con đi học đến nơi đến chốn, và còn cho con cơ hội đi học trường Đại Học, rồi tháng 10/2000 đi du học Nhật Bản nữa.

Công việc xuyên suốt từ năm 1990-2000 tròn 10 năm con đi hoá duyên xin thức ăn về phục vụ ni chúng. Nên đi riết các mối ngoài chợ của cô bác anh chị em buôn bán đều nhớ mặt con và biết con tu ở chùa nào luôn.

Với những lễ lớn, con và vài chị em ra chợ cầu Muối, chợ Bến Thành để đi hoá duyên nhiều cho đủ nấu cúng rằm và đãi cho Phật tử.



su ba khanh long- (7)su ba khanh long- (10)su ba khanh long- (11)
su ba khanh long- (4)su ba khanh long- (5)


su ba khanh long- (6)su ba khanh long- (9)

4/ Thầy đứng ra đỡ đầu cho chúng con thọ giới Sadi, Thức xoa Ma ni, rồi đến thọ giới tỳ kheo.

Năm 1998 thầy vừa làm tam sư thất chứng trong Giới Trường và thầy vừa làm giám khảo trong trường thi đại giới đàn. Năm đó con được đậu top đầu bảng và nhận phần thưởng bộ Phật học Phổ Thông, thầy rất hoan hỷ. Và hoan hỷ nhất nữa là thầy xin ban tổ chức kiến đàn cho con được đảnh lễ Hoà Thượng Yoshimizu Daichi ngài quang lâm thăm hỏi và sách tấn hộ trợ cho giới đàn.
Con được cầu pháp đảnh lễ HT cũng đều nhờ ơn đức kết nối của Thầy hết bạch thầy.

Từ những năm đó HT thường xuyên quang lâm về chùa Khánh Long, và HT rất tán thán công hạnh của thầy nên HT mời thầy và cô Hiền sang NB du lịch xem mùa xuân anh đào Nhật Bản.

Tại Chùa Nisshin Kutsu thầy giảng pháp cho các em sinh viên và khuyến tấn học Phật. Lúc đó có em Sang, Em Hằng, Em Hoa, Em Kiều Anh vvvv
Thầy rất nghiêm minh và oai hạnh trong sự tu học. Hằng năm Q4 tổ chức sự kiện của GH, thầy và ni chúng đều tích cực tham gia. Đặt biệt 3 tháng an cư kiết hạ tại chùa Kim Liên thầy đều cùng với quý Ni Trưởng trong Quận nghiêm trì giới luật, tụng giới hàng tháng và thầy cũng là chứng minh tối cao bên ni giới trong quận trong GH.

Giỗ tổ Chùa Thiên Ấn Quảng Ngãi, thầy tổ chức hàng hàng lớp lớp Phật tử về nơi chốn tổ để chiêm bái.
Có sự kiện gì thầy cũng cho chúng con đi Đảnh lễ sư bác Hạnh Ngộ, sư bác Hạnh Trân, sư bác Hạnh Giải, sư bác Hạnh Trình vvvv
Thầy cũng thường xuyên tổ chức đi cứu trợ đồng bào khó khăn miền trung Tịnh Sơn, Sơn Tịnh Quảng Ngãi là quê hương của thầy, nơi thầy sinh ra và lớn lên. Mãnh đất dù khó khăn do thiên tai lụ lụt, hạn hán nóng oai, nhưng chính mãnh đất linh kiệt này đã có thầy hiện hữu đất thân cõi ta bà này để hoằng hoá độ sinh.

Thầy độ rất nhiều đệ tử và ni chúng.

Tuy con nhập chúng tu học nhưng thầy không hề phân biệt đâu là đệ tử đâu là chúng, thầy đều có tâm bình đẳng như nhau. Thầy dạy chúng con:” vận tâm bình đẳng pháp lực vô biên” nhé con, và con phải có “bình đẳng tánh trí” “hoà bình yêu thương” thì con đi đâu làm gì ắt sẽ thành công.
Thầy còn dạy thêm cho chúng con: “cuộc đời này ngắn ngủi và vô thường lắm, nên mình phải tranh thủ tu, phải ráng tu nghe con”.
Thầy còn dạy:” học đạo không thông lý đời sau trả nợ tín thí đó con”.
Lời thầy dạy vẫn còn văng vẳng đâu đây bên tai của con thầy ơi.

5/ Đã 24 năm trôi qua cho tha hương cầu thực, du học và hành đạo nơi xứ người, thầy lúc nào cũng dõi theo từng phật sự của con.
Mỗi lần con về VN ghé chùa thăm thầy, sư chú và quý cô ai ai cũng rất hoà quyện và ôm chầm con. Con nhận được biết bao tình thương mà thầy dành cho và nếu không có thầy thì đời con không có ngày hôm nay.
Hôm nay dù xa xôi hơn 1/4 trái đất, chúng con huynh đệ chị em phủ phục dưới kim quan của
Thầy và xin đê đầu đảnh lễ pháp thân thầy, nhớ về Thầy ngàn đời không quên.

Con biết làm sao bộc bạch hết nỗi lòng thương tiếc đối với Thầy, nỗi đau buồn trước cảnh phân ly. Con đã đôi lúc dự cảm mơ hồ một ngày bất hạnh. Vậy mà khi nghe tin Thầy đã mãn duyên về cõi Phật con vẫn thất hụt hẫn bơ vơ như cánh én lạc loài giữa tháng xuân tàn. Thầy đã đi vào cõi Niết bàn Tịch diệt nhưng đức độ và công hạnh của Thầy vẫn tỏa ngát Ưu Đàm. Duyên hóa độ đã mãn trong pháp giới vô biên.

"Khánh Long khuất bóng Ân Sư
Âm thanh vang vọng nỗi đau mất Thầy
Thầy là dòng nước thanh lương
Nghiêm trì Phật điển hoằng dương pháp mầu
Thầy đi về cõi Tây phương
Môn đồ, Pháp quyến hoa hương lệ thầm!
Con đây ngấn lệ ngậm ngùi
Nguyện làm hiếu tử thệ lời sắc son."
"Dưỡng dục Ân sâu chưa đáp đền
Mà nay thầy cưỡi hạc về Tây
Đệ tử ngậm ngùi trong tiếc nuối
Cầu nơi Cực Lạc Thầy An Nhiên".


Ni Chúng chùa Khánh Long
TKN Thích Tâm Trí
Kính Bái Biệt Thầy.







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 12627)
Hòa Thượng thượng Tâm hạ Thành. Thế danh là Nguyễn Ðức Huân sinh năm 1930 tại làng Trà Bắc, Phủ Xuân Trường, Tỉnh Nam Ðịnh, Miền Bắc Việt Nam. Năm 1942 khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài ngộ lý vô thường và xuất gia học đạo với Sư Tổ Thượng Chính Hạ Ðĩnh tại chùa Yên Cư, Phủ Xuân Trường, Thuc Sơn Môn Trà Bắc. (Sơn môn Trà Bắc, Trà Trung và Trà Ðông thuc Tổng Trà Lũ, là hậu thân của Sơn môn Yên Tử). Ngài được Bổn Sư ban Pháp danh là Ngọc Tiểu Pháp hiệu Tâm Thành.
09/04/2013(Xem: 9577)
Mỗi lần đi Huế lòng tôi lại nao nao khôn tả. Huế là đạo, là thơ, là nghĩa tình ý vị, là tinh hoa văn hóa của ba miền đất Việt, nhưng cũng là mảnh đất khô cằn của đói nghèo khốn khổ “mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm” đã hứng chịu nhiều thiên tai nhân họa. Huế được phong phú về mặt văn hóa, tâm linh là nhờ hình ảnh những vị đại lão hòa thượng nơi đây đã sống, hành đạo và xả báo thân. Dù đã viên tịch, dư hương các ngài vẫn như còn phảng phất nơi các ngôi tổ đình tĩnh lặng và những rừng thông bạt ngàn.
09/04/2013(Xem: 6967)
Giờ phút Thầy an nhiên xả báo thân, thì bên này hơn nữa đêm. Một Phật tử của Thầy ở miền Đông nước Mỹ, giọng đầm đìa nước mắt, khấp báo cho tôi tin Thầy đã từ biệt, lệ tiếc thương như tràn ngập, khắp đó khấp đây. Rồi Tuệ Sỹ, một hậu tấn, kẻ đồng tâm dễ thương của Thầy, mà tôi thường ví như một hạt kim cương hiếm hoi lẫn trong đá sỏi của Phật Giáo Việt Nam ngày nay, trong nổi cô quạnh bao la vừa sau một mất mát lớn lao đã ai tín cho tôi bằng lá thư không niêm mà tôi biết mỗi chữ cũng trĩu nặng nổi lòng.
09/04/2013(Xem: 3896)
Cho phép con thành tâm kính cẩn chia buồn với quí ngài về nỗi mất mát lớn lao không sao tìm lại được. Ðối với kẻ hậu học, làm sao con không khỏi bồi hồi, luyến tiếc khi hay tin sự ra đi của cố Hoà thượng Thích Ðức Nhuận, người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp và dân tộc. Trong giờ phút này, nơi phương xa, một người đệ tử đã có nhân duyên muộn hầu cận, học hỏi nơi cố Hoà thượng khi còn ở Việt Nam, xin đảnh lễ chư tôn đức trong Tổ đình và xin quí ngài cho con có đôi lời bộc bạch với giác linh của cố Hoà thượng. Ngưỡng bạch giác linh Hoà thượng chứng giám.
09/04/2013(Xem: 6908)
Hòa Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Văn Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Ðạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo, thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Ðà. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em, 5 trai và năm gái.
09/04/2013(Xem: 19088)
Để ghi lại những công –tác Hoằng-pháp và Giáo-dục trong niên-khóa vừa qua, chúng tôi đã thuyết-pháp và giảng-giải các lớp ở Ấn-Quang cho hàng Phật-Tử tại gia, cũng như tại Viện Đại Học Vạn-Hạnh cho sinh-viên Phật-khoa năm thứ IV (73-74) về môn các tác phẩm Trung-Hoa. Và cũng thể theo lời yêu cầu của đa-số Phật-tử muốn có tài-liệu để học-tập và nghiên-cứu, nên chúng tôi gom góp các bài đã biên-soạn, đúc kết thành một tập sách với nhan đề: “GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA”.
09/04/2013(Xem: 10476)
hế danh của Sư Bà cũng chính là Ðạo Hiệu hiện tại. Song Thân khó nuôi con, nên lúc 2 tuổi hai Cụ đã đem vào chùa cúng cho Sư Bà Ðàm Soạn, Trú trì chùa Cự Ðà và được Sư Cụ đặt tên là Ðàm Lựu. Phụ thân của Sư Bà là Cụ Ông Ðặng Văn Cán và Mẫu thân là Cụ Bà Nguyễn Thị Cả. Sư Bà sanh vào ngày 13 tháng 6 năm Quý Dậu, 4.811 Quốc Lịch; nhằm ngày 04 tháng 08 năm 1933 Tây lịch; tại làng Tam Xá, xã Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông, Bắc Việt Nam.
09/04/2013(Xem: 5723)
Hòa Thượng Thích Như Điển, thế danh Lê Cường, Pháp tự: Giải Minh, Pháp hiệu: Trí Tâm, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Học lực: Cử nhân giáo dục và Cao học Phật giáo tại Nhật Bản. Gia cảnh: Con út trong số 8 người con gồm 5 trai và 3 gái; Thân phụ: Ông Lê Quyên, pd: Thị Tế, Thân mẫu: Bà Hồ thị Khéo, pd: Thị Sắc. Người anh thứ bảy đã xuất gia đầu Phật năm 1958 tại chùa Non Nước, Đà Nẵng. Hiện là Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL, Phương Trượng Tự Viện Pháp Bảo tại Sydney, Úc Đại Lợi.
09/04/2013(Xem: 10576)
Tuyển tập Nhạc Phật Giáo do Nhạc Sĩ Hằng Vang (1933-2021) sáng tác
09/04/2013(Xem: 8527)
Nhìn tổng quát công trình nghiên tầm, khảo cứu các văn kiện, tài liệu cổ để tập thành các tác phẩm qua các bộ môn: Lịch Sử, Văn Hóa, Văn Học, Âm Nhạc, Triết học, Thiền học... của Tiến sỹ Sử gia Lê Mạnh Thát là một thành quả to lớn được kết tinh bởi một trí tuệ siêu tuyệt, một khả năng hy hữu, một thời gian liên lũy, lâu dài, qua nhiều thập niên. Đó là những yếu tố mà ít người có được, để lưu lại cho hậu thế những thành quả văn học đồ sộ và chuẩn xác trên dòng sử mệnh quê hương.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]