Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhân Duyên Hội Ngộ Thời (Bài của HT Thích Như Điển tưởng niệm Ôn Tuệ Sỹ)

12/01/202407:41(Xem: 1376)
Nhân Duyên Hội Ngộ Thời (Bài của HT Thích Như Điển tưởng niệm Ôn Tuệ Sỹ)



on tue sy

Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ. Cả Gia Đình đều sống ở Pháp sau năm 1975. Mỗi lần tôi sang Paris, Thầy Quảng Đạo thường hay nhờ Đạo hữu Quảng Chơn chở dùm tôi về chùa từ phi trường Charles de Gaulles, độ xa chừng 70 cây số. Đây là dịp tôi hay hỏi thăm Đạo hữu về Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ. Riêng Đạo hữu Trung Diệp thì tôi đã gặp tại Thủ Đô Bonn của Tây Đức vào những cuối năm 1988, sau khi Ngài Tuệ Sỹ bị tuyên án tử hình, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Chi Bộ Đức Quốc đã tổ chức biểu tình, tuyệt thực trước sứ quán cộng sản Việt Nam tại Bonn và Đạo hữu Trung Diệp đã sang Đức để cùng đấu tranh cho Anh mình được bỏ án tử hình.

Đầu năm 2021 khi gặp Đạo hữu Quảng Chơn, tôi đã được gửi tặng quyển “Thiên Lý Độc Hành” do Hương Tích Phật Việt xuất bản năm 2020 tại Việt Nam với số thứ tự bản in thứ 58, do Thầy Hạnh Viên viết lời tựa bằng Việt ngữ và đã được dịch ra Pháp ngữ, Nhật ngữ và Anh ngữ. Riêng 13 bài thơ có nội dung “Thiên Lý Độc Hành” đó được chia ra làm 4 không gian tĩnh lặng cho các dịch giả dịch thơ của Ngài ra Hán-Nôm và tiếng Nhật, có Đạo hữu Bùi Chí Trung. Dịch sang Anh ngữ có Nguyễn Phước Nguyên, dịch sang Pháp ngữ có Cô Dominique de Miscault và Đào Nguyên Dạ Thảo thiết kế trình bày.

Sau khi đọc xong thơ bằng cả 4 ngôn ngữ nầy, tôi xem hình ảnh từ sau ra trước. Ở trang 130 có hình của Ngài Tuệ Sỹ đang đứng bên cạnh Ngũ Trọng Tháp chùa Pháp Long tại Nara và đặc biệt ở trang 99 là hình ảnh của Ngài đứng bên dãy hành lang mặt tiền của Đông Đại Tự (Todaiji) cũng tại Nara, Nhật Bản. Ở đây không phải tôi đi bình thơ của Ngài, mà tôi muốn tán dương những người dịch ra ba ngoại ngữ quá xuất sắc, kể cả Hán–Nôm và Nhật ngữ. Đây là những ngôn ngữ khó để đi vào việc dịch thuật. Thế mà dịch giả Bùi Chí Trung đã chuyển tải trọn vẹn ý thơ qua cách gieo vần cũng như điệu của thơ.

Tôi không và chưa bao giờ làm thơ cho ra hồn, mà tôi chỉ biết học thuộc lòng thơ của nhiều thi sĩ nổi tiếng để gửi lòng mình vào thơ khi nhớ cảnh, nhớ quê; nhất là quê hương muôn thuở qua niềm thương nỗi nhớ. Vì tôi đã xa quê hương từ năm 1972 đến năm 2024 nầy cũng đã 52 năm rồi.

Năm đó, khi tôi rời quê hương Việt Nam yêu dấu để đi du học tại Nhật Bản, cũng là lúc Ngài Tuệ Sỹ đã là Giáo Sư thực thụ của Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn rồi và kể từ đó cho đến khi Ngài viên tịch vào ngày 24 tháng 11 năm 2023 vừa qua, tôi chưa có cơ duyên để gặp Hòa Thượng lần nào cả. Chỉ mấy lần họp qua Zoom về việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp và Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời thì tôi đã được diện kiến và trao đổi với Ngài nhiều lần; rồi những buổi sáng Thứ Bảy hằng tuần trong thời gian hai Hội Đồng trên được thành lập, tôi hay gọi thăm Ngài để nghe những lời nhắn nhủ hay đề nghị những việc cần làm; nhất là những ngày cuối đời, trước khi Ngài viên tịch, tôi đã gọi thăm Ngài trên giường bịnh hay những lần họp khẩn cấp về việc xuất bản Thanh Văn Tạng, tôi mới dám làm phiền đến Ngài. Vì tôi biết rằng Ngài rất bận cho công trình biên dịch và giảo chánh lại lần cuối những bản kinh văn nầy. 

Nhìn tấm hình ở trang 99 của quyển “Thiên Lý Độc Hành” để nhớ về sự kiện năm 752 là năm Thánh Vũ Thiên Hoàng (Shomu Tenno) đã cho người sang Trung Quốc thỉnh Ngài Bodhi Senna (người Ấn Độ) và Ngài Phật Triết (người Lâm Ấp) sang Nara Nhật Bản để làm lễ khai nhãn cúng dường tôn tượng Tỳ Lô Giá Na Phật được đúc bằng đồng đen, nặng 500 tấn. Chùa thuộc Hoa Nghiêm Tông, mà ngày nay tượng vẫn còn ngự trị uy nghi tại đó. Tuy rằng ngôi chùa cổ bị chiến tranh và động đất tàn phá, phải trùng tu lại nhiều lần, mới còn tồn tại đến ngày hôm nay. Điều đặc biệt của Ngài Phật Triết là gốc người Lâm Ấp (Việt Nam sau nầy) sang Ấn Độ học Đạo, gặp Ngài Bodhi Senna, nhận làm Thầy, sau đó về lại Lâm Ấp học những điệu múa Vu Lan và tán tụng theo nghi lễ Đại Việt, mang sang Trung Hoa cũng như Nhật Bản để truyền lại cho chư Tăng Ni và Phật Tử tại đó, mà ngày nay những chùa Viện tại Nara như chùa Đại An (Daian), nơi Thầy Trò Ngài Phật Triết ở cũng như chùa Đông Đại tự (Todaiji) cả hai đều nằm tại Nara; nơi đây vẫn còn bảo lưu những việc truyền thừa nầy.

Phái Đoàn Hoằng Pháp Liên Châu chúng tôi đến Nhật Bản lần nầy từ ngày 2 tháng 11 đến ngày 28 tháng 11 năm 2023 quyết tâm đến viếng thăm hai ngôi cổ tự nầy và phát hiện thêm được rằng: Chính Ngài Phật Triết (Buttetsu) đã dùng tiếng Phạn để ghi âm ra tiếng Nhật ngày nay (Hiragana-Bình Giả Danh) mà rất nhiều học giả Nhật Bản trong hiện tại quan tâm nghiên cứu đến. Hy vọng một ngày mai gần đây những công trình nầy được nhiều người công nhận rồi, thì Phật Giáo Việt Nam của chúng ta đóng góp về phương diện Văn Hóa, Giáo Dục không nhỏ cho Nhật Bản nói riêng cũng như nhân loại nói chung.

Đến Nhật Bản kỳ nầy chúng tôi cố gắng tìm lại những nơi mà năm 2020 Hòa Thượng Tuệ Sỹ đã sang Nhật trú ngụ để chữa bịnh trong thời kỳ Covid hoành hành đây đó. Đầu tiên chúng tôi đến thăm chùa Đức Lâm (Tokurinji) ở Nagoya Tỉnh Aichi, nơi Thầy Thánh Duyên đang làm luận án Tiến Sĩ. Thầy ấy đã có nhiều thời gian hầu cận Ngài Tuệ Sỹ và giới thiệu với vị Hòa Thượng Trụ Trì chùa Đức Lâm về một nhà sư uyên bác của Việt Nam sang Nhật Bản trị bịnh. Thầy Thánh Duyên cho biết khi Hòa Thượng Tuệ Sỹ ở chùa Đức Lâm để trị bịnh Ngài đã bút đàm với Hòa Thượng chùa Đức Lâm bằng Hán và Nhật ngữ, mà “Thiên Lý Độc Hành” là một phần nối kết mối giao tình lúc xa quê. 


Tôi thấy chỗ ở của Hòa Thượng Tuệ Sỹ đơn giản quá, mặc dầu tấm lòng của Hòa Thượng Trụ Trì chùa Đức Lâm thì rộng thênh thang như biển cả, cao vút tận mấy tầng không của cây cỏ trong rừng Thiền, nên tôi hỏi Thầy Thánh Duyên rằng: Ngài còn ở đâu nữa không? Thì được trả lời là: Còn chùa Tinh Tấn ở Hamamatsu nữa. Rồi cuối cùng chúng tôi cũng đã đến thăm chùa nầy vào một cuối tuần của tháng 11 năm 2023. Chùa nầy do Ni Sư Thích Nữ Như Tâm sáng lập và sau nầy thỉnh Thầy Thánh Duyên Trụ Trì. Tôi và Phái Đoàn được Thầy Thánh Duyên giới thiệu nơi Ngài Tuệ Sỹ làm việc trong thời gian chờ đợi và khám bịnh tại bệnh viện ở Nagoya và chính nơi phòng nầy, Hòa Thượng đã gọi điện thoại đi khắp nơi trên thế giới vào cuối năm 2020 trước khi về Việt Nam để thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp và Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời.



chua duc lam 4Căn phòng Ôn Tuệ Sỹ dưỡng bệnh ở Chùa Đức Lâm, Nhật Bản

chua duc lam 1Ghế ngồi và chiếc bàn nhỏ nơi Ôn Tuệ Sỹ làm việc trong thời gian

dưỡng bệnh ở Chùa Đức Lâm, Nhật Bản

chua duc lam 5Tòa nhà nơi có căn phòng nhỏ của Ôn Tuệ Sỹ ở Chùa Đức Lâm, Nhật Bản


chua duc lam 6Tháp Chuông Hồng Chung ở Chùa Đức Lâm, Nhật Bản

chua duc lam 7HT Như Điển và TT Nguyên Tạng cùng với Thầy Trụ Trì Chùa Đức Lâm, Nhật Bản

chua duc lam 3HT Như Điển, TT Nguyên Tạng & NS Như Tâm (Trụ Trì Chùa Phước Huệ, Aichi, Nhật Bản)

hình chụp đường dẫn vào Chùa Đức Lâm, Nhật Bản


chua duc lam 8HT Như Điển tặng Kỷ Yếu Tri Ân Ôn Tuệ Sỹ đến Đại Đức Thánh Duyên

(du học sinh tại Nhật Bản, có duyên làm thị giả Ôn Tuệ Sỹ trong thời gian Ôn dưỡng bệnh ở đây)



Ngày mai mồng một tháng 12 năm Quý Mão, nhằm ngày 11 tháng 1 năm 2024, tại chùa Phật Ân ở Việt Nam làm lễ tuần chung thất cho Ngài. Ở Hải Ngoại Ban Biên Tập Phật Việt muốn xuất bản tập thứ 3 – Xuân Nay Vắng Thầy – nhân tuần 49 ngày của Hòa Thượng, nên tôi cố gắng viết vài dòng duyên khởi có nhan đề là “Nhân Duyên Hội Ngộ thời” để nhớ lại một thời đã qua là như thế, mà có lần Từ Hy Thái Hậu của Trung Quốc khi cho 4 chữ “Hải Thiên Phật Địa” cho chùa Cực Lạc tại Penang, Mã Lai cũng đã có ý lưu lại rằng: “Biển rộng rãi bao la là của Trời, còn đất chịu đựng kham nhẫn là thuộc về Phật,” để sánh với “Thiên Lý Độc Hành” của Hòa Thượng Tuệ Sỹ hay “Vạn lý vô vân vạn lý thiên” (muôn dặm không mây, muôn dặm trời) của vua Trần Nhân Tông chúng ta vậy. Riêng tôi xin kính dâng Ngài nhân tuần chung thất với 4 chữ như sau: “Bao la vạn dặm.”


Viết xong vào lúc 17 giờ ngày 10 tháng 1 năm 2024 tại Phương Trượng Đường Tổ Đình Viên Giác Hannover, Đức Quốc.  
Thích Như Điển

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8090)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4902)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37251)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6147)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6113)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5754)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5459)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8770)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]