Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Lần Gặp Gỡ Thầy Tuệ Sỹ-Tạo Nên Mối Thâm Tình

03/01/202414:51(Xem: 1593)
Những Lần Gặp Gỡ Thầy Tuệ Sỹ-Tạo Nên Mối Thâm Tình

NHỮNG LẦN GẶP GỠ THẦY TUỆ SỸ- TẠO NÊN MỐI THÂM TÌNH

Mọi người đều tôn vinh Ngài Tuệ SỸ là Trưởng lão Hòa thượng, nhưng tôi được xin phép gọi là Thầy Tuệ Sỹ, với niềm tôn kính, ấm áp, thương yêu. Bởi vì tôi đã gặp Thầy hơn 60 năm về trước, trong khuôn viên Trường Cao Đẳng Phật Học, do Hòa Thượng Thích Trí Thủ và Hòa thượng Thích Nhất Hạnh sáng lập năm 1964 tại chùa Pháp Hội.

Lúc đó Thầy Nhất Hạnh giao cho tôi phụ trách Ban Tu Thư Phật giáo do Thầy chỉ đạo. Nơi ấy tôi đã sống những ngày thật hạnh phúc trong tình đạo vị. Thầy Nhất Hạnh đã chỉ dậy tôi rất nhiều trong nghiệp vụ thư ký, soạn thảo những văn bản, tác phẩm văn hóa, đạo học do các học giả từ ngoại quốc gửi về. Nơi đó tôi đã gặp các vị tu sĩ hiền hòa, thông minh như Thầy Châu Toàn, Thầy Thanh Tuệ, Thầy Thanh Văn…và Thầy Tuệ SỸ. Tôi gọi Thầy là Chú Tuệ Sỹ, bởi vì thân hình Chú gầy ốm, mặc bộ áo lam cũ, khuôn mặt nhỏ, chỉ có đôi mắt sâu thẳm, sáng quắc, lộ vẻ tinh anh. Thầy hiền và ít nói. Thỉnh thoảng Thầy có ghé bàn giấy tôi làm việc để gửi bài cho báo Hải Triều Âm. Tôi có ngồi nói chuyện với giáo sư Phạm Công Thiện vài lần (lúc đó thầy Thiện là Tăng Sĩ Phật Giáo). Thầy Thiện và Thầy Nhất Hạnh hay nhắc đến chú Tuệ Sĩ với những lời khen ngợi. Tôi cũng không quan tâm lắm đến chú Tiểu này.

Lần thứ hai tôi gặp Thầy Tuệ Sỹ ở trại cải tạo Hàm Tân, khi tôi vào thăm nuôi Thầy Đức Nhuận. Lúc đó tôi chỉ chào Thầy với ánh mắt kính ngưỡng, không nói được điều gì.

Lần thứ ba tôi gặp Thầy ở chùa Già Lam, -năm 2003- nhân ngày tôi đi viếng đám tang Ni sư Thích Nữ Trí Hải, tôi ghé thăm Thầy. Chúng tôi rất mừng khi gặp lại nhau, dù trước đó cả hai chưa hề nói chuyện với nhau.

Thầy cười rạng rỡ khi nhìn thấy tôi. Tôi chắp tay chào Thầy, câu đầu tiên tôi nói với Thầy:

-Thưa Thầy, trước đây con gặp Thầy ở chùa Pháp Hội, lúc đó con gọi Thầy là chú Tuệ Sỹ một cách thân thương. Bây giờ sau mấy chục năm, con vẫn thấy Thầy nhỏ con và gầy như vậy. Hôm gặp Thầy trong phiên xét xử ở Tòa Án, con rất kính ngưỡng và thương Thầy. Hôm nay gặp lại Thầy, con mừng lắm. Con vẫn muốn gọi Thầy là chú Tuệ Sỹ, để ghi nhớ mãi tình cảm kính trọng và ấm áp con dành cho Thầy. Thầy có vui lòng để con gọi Thầy là Chú Tuệ Sỹ không ?

Thầy cười rất tươi, gật đầu.

-Được lắm chứ. Tôi muốn trẻ mãi như ngày xưa ấy.

Thầy rót nước mời tôi. Thầy bắt đầu hỏi chuyện tôi:

- Sư cô xuất gia lâu chưa, sao không thấy sư cô Trí Hải nhắc về cô xuất gia.

Thưa Thầy, con xuất gia được năm năm rồi. Sư Ông Làng Mai đón con sang Pháp và thế phát cho con.

Pháp danh của con là Chân Y Nghiêm. Con về Việt Nam hơn một năm. Hiện giờ con cất cái Am ở Long Thành, con tiếp tục làm chương trình học bổng cho Tăng Ni và các cháu sinh viên học sinh nghèo hiếu học, ngoài ra chúng con giúp cho các cụ già cô đơn và các cháu mồ côi tàn tật.

Vẫn ánh mắt sáng rỡ, ẩn chứa tấm lòng độ lượng, khí phách của bậc thiền sư nhập thế, Thầy kể tôi nghe về Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, bậc Thầy đạo hạnh, chân tu.

-Thầy Đức Nhuận có kể cho Tôi nghe về cô Thuần, một phật tử kiên trung với đức Phật và Đạo Pháp. Cô ấy đã xả thân vào chốn pháp đình, làm đơn yêu cầu nhà cầm quyền đưa vụ án Phật Giáo ra xét xử, nhờ vậy họ mới đưa chúng ta ra tòa để kết án. Thầy nhắc đến sư cô Trí Hải, cô ấy gọi cô là: Thuần điếc không sợ súng.

Tôi cười, thưa Thầy:

-Con cũng sợ súng đạn lắm chứ, nhất là con sợ người ta đánh con đau. Nhưng con có niềm tin vào Đức Quan Âm, con tin Ngài sẽ che chở cho con. Mỗi lần gặp họ, con đã nhìn sâu vào lòng bàn tay, niệm chú Tâm Kinh Bát nhã, xin Ngài truyền cho con đức Vô úy và sự bình an, nhờ tâm chí thành mà con đã vượt qua bao hiểm nguy, thuyết phục được họ. Họ nói nhiều lần họ muốn bắt con để điều tra, nhưng thấy con chân thật, nghèo mà đông con quá, nên họ bỏ qua cho con.

Bây giờ con đã đạt được ước mơ đi xuất gia để giúp đỡ các trẻ mồ côi, con vui lắm. Con được làm học trò của Sư Ông Làng Mai, con thấy mình thật may mắn. Dù sống xa Thầy bổn sư, nhưng con vẫn cố gắng tu học, để mãi mãi con được làm đệ tử của Sư Ông.

Thầy lắng nghe tôi kể chuyện một cách hồn nhiên. Trước mắt Thầy, tôi vẫn như cô Thuần ngày nào làm Ban Tu Thư Phật Giáo, quanh năm mặc chiếc áo dài màu tím, nét mặt phảng phất buồn. Thầy kể tôi nghe những ngày tháng Thầy ở trong tù, tuy bị đày ải, nhưng tâm hồn Thầy vẫn bình an. Ngoài giờ lao động, Thầy vẫn ngồi thiền, quán tưởng về kiếp sống nhân sinh, Thầy vẫn sáng tác, làm thơ. Đời sống trong tù cũng có nhiều ý nghĩa, Thầy giúp được nhiều sỹ quan hướng về giáo lý uyên thâm của đạo Phật, chỉ họ ngồi thiền giải thoát nỗi đau….

Chúng tôi nói chuyện với nhau thật thà, như là tri kỷ. Thầy kể tôi nghe, trong thời gian Thầy bị Tù đày, những tác phẩm dịch thuật có giá trị của Thầy bị sang tên đổi chủ…Câu chuyện chúng tôi kể cho nhau nghe chân tình, tưởng chừng như không muốn chấm dứt. Nhưng sợ làm mất thì giờ của Thầy, tôi xin phép Thầy về. Vừa mời đứng lên thì, cơn mưa rào trút xuống, Thầy nhìn tôi cười, đọc câu thơ cổ:

“Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách”

Thế là tôi đành ngồi xuống tiếp tục câu chuyện với Thầy. Nói chuyện với bậc thiền sư khả kính, phóng khoáng như Thầy, tôi rất vui. Tôi đã được Thầy trao đạo lý đơn giản làm người, lý tưởng sống thanh cao, tinh thần vô úy trước những bất công, đối xử với con người. Tôi trân trọng lắng nghe những câu chuyện của Thầy, nó đơn giản, chân thật, cao thượng, giúp tôi thêm hành trang vào cuộc sống, tô điểm cho khu vườn quê hương thêm sáng lạn.

Lần thứ tư tôi gặp Thầy ở Đồi Thông Phương Bối.8/1/2007

chan y nghiem-on tue sy


Thời gian đó tôi lưu trú tại TP Bảo Lộc, trồng cà phê, sống ẩn tu, hạn chế tiếp xúc với mọi người. Điện thoại chú Lão, con trai út của ông Nguyễn Đức Sơn, báo tin, chú sẽ chở Thầy Tuệ Sỹ đến thăm tôi. Tôi trả lời chú:

Không được đâu, chú đừng chở Thầy đến đây. Tôi sẽ nhờ Tâm Không chở tôi đến thăm Thầy ngay sáng nay.

Tâm Không chở tôi đến gặp Thầy. Thầy vẫn ngồi trên đồi thông đợi tôi. Sau bao năm xa cách, phút giây hội ngộ thật cảm động. Tôi cúi đầu chào Thầy, rồi ngồi xuống chiếc chiếu manh trên thảm cỏ. Cả hai chúng tôi đều yên lặng. Những hàng thông cao vút đứng yên giữa bầu trời xanh, xuyên qua kẽ lá những cụm mây trắng bay. Tia nắng ban mai lấp lánh trên từng vạt cỏ chen lấn gốc thông già. Tôi nhìn Thầy thật lâu, vẫn thân hình xương xương, đôi mắt ngời sáng vẻ xa xăm, từ ái, vầng trán trí tuệ trên khuôn mặt bậc thiền sư, thoáng chút lãng tử.

Tôi mở lời trước:

-Thưa Thầy, đã lâu rồi, hôm nay con thấy Thầy vẫn như ngày xưa, không mấy thay đổi.

-Thì tôi vẫn là sư chú đó thôi. Thầy cười, nét mặt rạng rỡ trong sáng, như bầu trời Phương Bối sáng nay


Hai Thầy trò chúng tôi nói chuyện với nhau rất nhiều. Chuyện xưa, chuyện nay, chuyện văn học, thơ ca, chuyện đời sống nhân sinh, chuyện về những tác phẩm Thầy mới dịch xong, nhiều đến nỗi tôi không nhớ nổi. Duy chỉ có một điều tôi nhớ mãi đến bây giờ:

-Thưa Thầy, năm 2005, Thầy Nhất Hạnh về thăm Việt Nam, Thầy có biết không.

-Lúc đó tôi nhập thất không hay biết chuyện gì xảy ra bên ngoài.

-Thời gian sau Thầy Nhất Hạnh cùng vài đệ lớn đến thăm Thầy, mà Thầy không tiếp.

-Lúc đó tôi vẫn còn đang nhập thất, tôi không thấy ai báo cho tôi biết. Nếu tôi biết Thầy Nhất Hạnh đến thăm, tôi sẽ xả Thất để gặp Thầy, vì Thầy là bậc ân sư, tôi rất kính trọng.

Nỗi hoài nghi, băn khoăn đã buông xả hết trong tôi. Tôi không tin những bậc Chân Sư tôi kính trọng lại còn vướng mắc những rắc rối thế gian mà quên đi tình Thầy trò Huynh đệ.

Lần gặp Thầy thứ năm chiều ngày 9/1/2007

Như còn nhiều điều chưa thông tỏ, chiều hôm sau tôi nhờ Tâm Không chở tôi đến Phương Bối gặp Thầy.

Thầy vẫn ngồi trên manh chiếu bên gốc thông già đợi tôi. Đôi mắt Thầy ẩn chứa niềm vui.

Tôi chắp tay chào Thầy rồi ngồi xuống, cả hai chúng tôi đều im lặng. Cái giây phút im lặng ngọt ngào, thấu hiểu tâm tư trong sáng, như mây trắng bay xuyên qua cành lá thông xanh, thật hạnh phúc.

Thầy kể tôi nghe ngày còn nhỏ, vào chùa nhìn thấy đức Phật nét mặt Ngài bình an, giải thoát, Thầy muốn đi tu. Bố mẹ Thầy không cho phép, nhưng Thầy vẫn thường đến chùa tụng kinh, ngồi thiền. Sư trụ trì khuyên bố mẹ Thầy nên cho Thầy xuất gia do Thầy có căn duyên sâu dày từ những kiếp trước. Thấy Thầy thông tuệ, làu thông kinh sách, Sư Trụ Trì khuyên bố mẹ Thầy nên về Việt nam, trao gửi Thầy cho những vị cao Tăng Thạc Đức hương dẫn Thầy tu học.

Năm 1961, 16 tuổi, Thầy thọ giới Sa-di với Hòa thượng Thích Hành Trụ tại Sài Gòn.

Năm 1964, Thầy theo học trường cao đẳng Phật học chùa Pháp Hội và năm đó Thầy gặp cô thư ký Ban Tu Thư Viện Đại học Phật Giáo. Thật không ngờ, năm 1987, cô ấy lại xả thân làm đơn kêu gọi nhà nước đưa Vụ Án Phật Giáo ra Tòa. Rồi chiều nay, 2007, lại được gặp cô ấy trong Rừng Thông Phương Bối, kể chuyện ngày xưa. Thầy đọc hai câu thơ cổ:

Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ.

Vô duyên đối diện bất tương phùng.

Lần gặp mặt chiều nay chúng tôi ít nói chuyện, chỉ ngồi lặng im nghe tiếng thông reo. Rừng thông Phương Bối rất thơ mộng, mang nét thiền tĩnh lặng. Gia đình ông Nguyễn Đức Sơn đã đổ nhiều mồ hôi, công sức và cả máu nữa để gây dựng, gìn giữ đồi thông thánh địa này. Tôi gọi là Thánh Địa, bởi vì nó được xây dựng bằng tâm huyết, sức lao động và niềm ước mơ của Thầy Nhất Hạnh.

Năm 1959, Thầy mua miếng đất 25 mẫu này với ý định sẽ tạo nên một Rừng Thiền, mời các vị thiền sư, các vị thức giả về đây cùng nghiên cứu tu học. Thầy sẽ xây dựng một Tăng Đoàn mới, gồm các vị tu sĩ trẻ, tu học pháp môn Thiền Chánh Niệm, hành trì nghiêm mật, có mặt trong từng bước chân, trong lúc rửa chén, quét nhà, luôn tỉnh giác mọi lúc, mọi nơi trong phút giây hiện tại. Thầy sẽ xây dựng Tăng Thân cư sĩ, học hỏi giáo lý của đức Phật Thích Ca. Thầy sẽ tổ chức những khóa tu cho sinh viên, học sinh, hướng dẫn các bạn ấy có một lý tưởng sống vị tha, hiếu thuận với ông bà, cha mẹ và giúp ích cho xã hội…

Lý tưởng cao đẹp chưa kịp thực hiện thì chiến tranh tàn khốc xảy ra. Thầy phải rời bỏ quê hương, và sống lưu vong từ đó.

Gia đình ông Nguyễn Đức Sơn có duyên may được tiếp nhận khu rừng thông này, từ đó họ khai thác trồng thông, gìn giữ mảnh đất rừng với bao nhiêu công sức gian khổ để có được khu rừng thơ mộng như bây giờ. Tác phẩm Nẻo Về Của Ý, Thầy Nhất Hạnh đã diễn tả những xúc cảm chân thực của Thầy, về Phương Bối Am như rừng thánh địa, một huyền thoại văn học tâm linh. Những năm trước, sư cô Chân Không nhờ con về đây, giúp đỡ gia đình ông Sơn. Nên con thường xuyên lui tới, con coi bà vợ ông Sơn và các cháu như người thân thương. Nhờ cháu Lão mà con giữ được sự liên hệ với Thầy. Tất cả vạn sự do nhân duyên kết nối. Con cảm ơn Trời Đất đã cho con được gặp gỡ Thầy.

Nét ngời sáng, giọng nói mang âm hưởng miền Trung, Thầy kể tôi nghe nhiều chuyện buồn vui của nếp sống thiền môn, những thao thức của Thầy về đạo pháp, về quê hương đất nước. Tôi cũng đã từng có những thao thức ấy, nên chúng tôi hiểu nhau, dễ cảm thông tâm ý nhau, như dòng sông chảy về một hướng. Nhìn vạt nắng đã ngả màu, tôi xin phép Thầy ra về. Thầy đứng lên tiễn tôi ra mé rừng. Nhìn Thầy thật lâu, tôi nói:

Đối với con, Thầy là bậc Chân Nhân. Thầy cho phép con được viết về Thầy.

Thầy nhìn tôi, cười nhẹ, gật đầu.

Đó là lần cuối, tôi gặp Thầy. Nhưng hình ảnh Thầy mãi ở trong tôi, chưa bao giờ là lần cuối.

Tháng 12-2023.

(Trích từ Hồi Ký Chân Y Nghiêm- NHƯ MỘT DÒNG SÔNG)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/08/2011(Xem: 6540)
Xuyên suốt lịch sử dân tộc, đã có biết bao nhiêu nhân vật với tư cách là người đứng đầu đất nước đã có những kỳ tích lẫm liệt đối với đất nước. Có nhân vật nổi bật lên trong sự nghiệp giữ nước, có nhân vật nổi lên trong sự nghiệp dựng nước, lại có nhân vật nổi lên trong sự nghiệp mở nước, hoặc có một số nhân vật có cả hai hoặc ba lãnh vực đó.
10/08/2011(Xem: 4878)
Cuộc đời xuất gia của Tổ Trúc Lâm là một cuộc đời hoạt động sôi nổi, tích cực. Ngoài các mùa kết hạ tại các am núi hay các chùa, thời gian còn lại Ngài thường đi vân du hoằng hoá đây đó. Năm 1304, “Điều Ngự đi khắp mọi nẻo thôn quê, khuyên dân phá bỏ các dâm từ [đền miếu thờ các thần sằng bậy] và thực hành giáo lý Thập thiện”. Ngài muốn xây dựng một xã hội trên nền tảng luân lý đạo Phật, góp phần củng cố triều đại thời hoàng kim của mình. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Đệ nhất Tổ Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông sinh ngày 11 tháng Mười một năm Mậu Ngọ (tức 7 – XII - 1258). Năm 21 tuổi (1279), Ngài lên ngôi vua, trải qua hai niên hiệu là Thái Bảo và Trùng Hưng.
10/08/2011(Xem: 6212)
Đại lễ tưởng niệm 700 năm Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn diễn ra từ 25 đến 27.11.2008 tại Quảng Ninh. Trong dịp này, Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Tỉnh hội Phật giáo Quảng Ninh sẽ tiến tới đề nghị hàng năm tổ chức tưởng niệm ngày mất của ngài (1.11.1308) như Quốc giỗ của Phật giáo và trình lên UNESCO công nhận Trần Nhân Tông là Danh nhân Văn hóa Thế giới.
10/08/2011(Xem: 5754)
Đã có 92 tham luận của chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước gửi đến cuộc hội thảo khoa học về cuộc đời và sự nghiệp của Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông hôm qua 26-11, tại thị xã Uông Bí (Quảng Ninh).
10/08/2011(Xem: 5050)
Trần Nhân Tông phải được coi là nhân vật kiệt xuất nhất trong lịch trình phong kiến Việt Nam và cũng là nhân vật kiệt xuất nhất trong sơ đồ Phật giáo Việt Nam, một trong những niềm tự hào lớn lao nhất của dân ta.
10/08/2011(Xem: 5989)
Về cuộc đời và sự nghiệp lịch sử, giải thoát của vua Trần Nhân Tông, đã có nhiều công trình biên khảo: Trần Nhân Tông, thiền sư Việt Nam; Trần Nhân Tông, nhà văn hóa; Trần Nhân Tông, nhà thơ; Trần Nhân Tông, nhà quân sự; Trần Nhân Tông, nhà lãnh đạo lỗi lạc; Trần Nhân Tông, nhà tư tưởng... Trong bài khảo luận ngắn này, người viết chỉ đề cập đến một số nét tiêu biểu về Tiểu sử, sở đắc giải thoát và Tư tưởng Phật học của Người.
10/08/2011(Xem: 5499)
Lịch sử dân tộc VN không có nhiều vị vua có được sự ghi chép đầy đủ về sự mến mộ của người dân sau khi đã mất như Vua Trần Nhân Tông. 50 năm cuộc đời, nhà vua để lại bao lưu luyến cho những người đương thời và hậu thế... - nhận định của GS-TS Lê Mạnh Thát - Phó Viện trưởng thường trực Học viện Phật giáo VN tại TPHCM.
09/08/2011(Xem: 5322)
Gần đến kỷ niệm 700 năm ngày mất của vua Trần Nhân Tông, chúng ta vẫn phải đặt những câu hỏi về tuổi tác, về trách nhiệm, về kế lâu dài, về sự tự do và tự trọng của các cá nhân trong xã hội…
09/08/2011(Xem: 4864)
Nghiệm sinh nửa thế kỷ trên cõi đời, Trần Nhân Tông (1258-1308) đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử chống ngoại xâm, xây dựng đất nước, phát triển tư tưởng Phật giáo dân tộc và là một trong những tác giả đi đầu trong việc sáng tác thơ phú bằng chữ Hán và chữ Nôm.
09/08/2011(Xem: 5121)
Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) sau khi khoác tăng bào ở tuổi 40 đã chu du khắp nơi để thuyết pháp, giảng kinh, khuyên dân chúng giữ gìn mười điều lành, và từng trở về kinh đô Thăng Long tổ chức lễ thụ Bồ tát giới cho vua Trần Anh Tông và quan lại triều đình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]