Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984)

19/04/202305:22(Xem: 2385)
Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984)

ht thich tri thu

LƯỢC SỬ

HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ
(1909-1984)




Hòa Thượng húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, hiệu Trí Thủ. Hòa Thượng sinh giờ Hợi ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu tức ngày 1 tháng 11 năm 1909. Xuất thân từ một dòng tộc nối đời sùng mộ Phật pháp. Hòa Thượng thuộc thế hệ thứ tám của họ Nguyễn, họ khai canh và khai khẩn làng Trung Kiên, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Dòng tộc này từ thế hệ thứ ba có Thiền Sư Đạo Minh – Phổ Tịnh trụ trì kế tổ Tổ đình Báo Quốc – Huế, kiến lập Sắc Tứ Linh Quang Tự tại thôn nhà (làng Trung Kiên, Triệu Phong, Quảng Trị) vào năm Gia Long nguyên niên (1802). Đời thứ tư có Hòa Thượng Nhất Định – Tánh Thiên khai sơn Tổ đình Từ Hiếu. Thế hệ thứ sáu Hòa Thượng Trừng Nhã, tự Chí Thanh khai sơn chùa Giác Lâm. Thế hệ thứ bảy Hòa Thượng Ngộ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ khai sơn chùa Hải Đức. Đồng hàng thứ tám có Hòa Thượng Tâm Lượng, hiệu Diệu Hoằng trùng hưng Diệu Đế quốc tự.

Thân phụ ngài húy Văn Minh, pháp danh Trừng Khiết, tự Diệu Quang, hiệu Hưng Nghĩa. Thừa tiếp gia phong, theo hạnh tu bán thế tục gia, lập am thất Phổ Tế tại vùng đồi phía Nam kinh thành Huế, quy ngưỡng Phật pháp. Thân mẫu tục danh Lê Thị Nậy, tự Chiểu, người làng Cu Hoan, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ngài là con trai trưởng, gia đình có hai em, một trai là Nguyễn Văn Khâm và một gái là Nguyễn Thị Vân.

Từ tấm bé, ngài đã theo đòi nghiên bút với Hán tự, chữ viết văn học thời này. Lên chín là khá làu thông việc đọc và viết các bài kinh nhật tụng. Ảnh hưởng đạo phong của các bậc tôn túc thân tộc, vốn ươm sẵn cốt tủy bồ đề và túc duyên với Phật pháp, mười bốn tuổi ngài theo bác ruột học kinh ở chùa Hải Đức – Huế. Dòng tộc vốn kính ngưỡng cao danh và đạo vị của Thiền Sư Viên Thành nên năm mười bảy tuổi ngài được cho đầu sư thọ học với Thiền Sư tại chùa Tra Am (Trà Am), Huế. Ngài được Bổn Sư Viên Thành nhận làm đệ tử thứ tư, ban pháp danh Tâm Như, pháp tự Đạo Giám và giáo huấn nghiêm ngặt. Ba đại sư huynh ngộ pháp nổi danh của ngài là Trí Uyên, Trí Hiển và Trí Giải.

Đủ hai mươi tuổi, Bổn Sư cho vào giới đàn chùa Từ Vân ở Đà Nẵng thọ Cụ Túc giới, Hòa Thượng trúng tuyển Thủ Sa Di trong số 300 Giới Tử tại giới đàn này. Do đó, Bổn Sư Viên Thành đã cho pháp hiệu là Thích Trí Thủ với ý khen tặng chữ Thủ là đứng đầu.

Sau hai năm cư tang Bổn Sư tại chùa Tra Am, ngài cùng các pháp lữ vào chùa Thập Tháp, Bình Định tham học với Hòa Thượng Phước Huệ vào năm 23 tuổi.

Mãn học, ngài ngồi ghế Giáo Thọ, dạy trường Phật Học Phổ Thiên ở Đà nẵng. Vì chưa thỏa lòng cầu pháp, ngài trở ra Huế, cùng các vị đồng học ở Thập Tháp ngày trước, tổ chức Trường Phật Học tại chùa Tây Thiên, cung thỉnh Tăng Cang Giác Nhiên chùa Thiền Tôn làm Giám Đốc, Hòa Thượng Phước Huệ chùa Thập Tháp làm Đốc Giáo dạy nội điển, đồng thời mời các Cư Sĩ như bác sĩ Lê Đình Thám dạy luận học, các cụ Nguyễn Khoa Toàn, Cao Xuân Huy… dạy các môn về văn hóa theo trình độ đại học. Ở trường này, ngài đã chính thức học chương trình đại học Phật Giáo cũng như văn hóa. Trong thời gian này, ngài đồng thời làm Giảng Sư cho Hội Phật Học Huế và dạy lớp trung đẳng Phật học cũng mở tại chùa Tây Thiên. Lúc này, ngài được hai mươi bảy tuổi. Khi Hội Phật Học mở trường tiểu học Phật Giáo tại chùa Báo Quốc, ngài đã kiêm dạy chúng Tăng Sinh ở đây.

Sau khi tốt nghiệp Trường Phật Học Tây Thiên, năm 29 tuổi (1938), ngài về trụ trì chùa tổ Ba La Mật, nhưng vẫn tiếp tục công việc giảng dạy cho Hội và các trường Phật học. Năm 1939, Ni Trường thành lập tại chùa Từ Đàm, Sơn Môn và Hội Phật Học giao ngài đặc trách việc đào tạo và điều hành Ni Trường này. Đây là cơ sở Ni Bộ đầu tiên được hình thành. Năm 1940, ngài trùng tu chùa tổ Ba La Mật. Năm 1941 mở Trường Sơn Môn Phật Học tại chùa Linh Quang Huế, chủ trương xây dựng kinh tế tự túc cho học chúng làm phương tiện tu trì trong giai đoạn kinh tế khủng hoảng thời bấy giờ. Ngài cũng chủ trương cho Học Tăng học văn hóa. Chính ngài đích thân dẫn Tăng Sinh đi thi tiểu học. Việc Tăng Sinh học văn hóa và thi lấy bằng cấp ngoài đời đã gây chấn động không ít trong số người chủ trương đào tạo Tăng Sinh theo nề nếp cũ.

Cách mạng tháng 8 dấy khởi, với cương vị Trị Sự Sơn Môn Thừa Thiên, ngài đã cùng nhiều vị lập Hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung Bộ, chủ trương tờ nguyệt san Giải Thoát làm cơ quan tuyên truyền. Ngài đắc cử Đại Biểu Hội Đồng Nhân Dân Thừa Thiên và được chính quyền mời đến Trung Bộ Phủ giao quyền sắp đặt lại chùa chiền, hủy bỏ chế độ chùa vua trước đó.

Năm 1948, ngài mở giới đàn tại chùa Báo Quốc, thân làm chủ đàn. Tại giới đàn này, ngài đã phục hồi ý nghĩa của Thất Chứng mà các giới trường xưa nay ít coi trọng. Trong ý nghĩa đó, ngài đã cung thỉnh các vị tôn túc giới đức cao dày làm Tôn Chứng để chứng minh cho sự truyền giới. Ngài cũng phân chia riêng Tăng, Ni hai bộ, Tăng độ cho Tăng, Ni độ cho Ni.

Năm 1951, với chức vụ Hội Trưởng Hội Việt Nam Phật Học Trung Phần, nằm trong hệ thống Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam có sáu tập đoàn Phật Giáo Bắc, Trung, Nam, đứng đầu là Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội Chủ, ngài đặt viên đá đầu tiên xây dựng Trường Tiểu Học Tư Thục Bồ Đề tại thành nội Huế. Đây là điểm mở đầu mạng lưới giáo dục Phật Giáo, đóng góp vào sự nghiệp hoạt động xã hội nhân sinh, xây dựng đất nước theo tinh thần nhập thế vốn có ở đạo Phật tự ngàn xưa. Mạng lưới giáo dục này từ đó liên tục phát triển với nhiều tỉnh thành khắp nước, ở cả ba cấp học. Đến năm 1975, đất nước hòa bình, mạng lưới lại hoàn toàn bị giải thể.

Năm 1952, ngài tạm nghỉ việc Hội, chuyên tâm giáo dục Học Tăng tại Phật Học Đường Báo Quốc. Cuối năm 1956, Phật Học Viện Trung Phần thành lập tại Nha Trang, ngài thân làm Giám Viện. Năm 1957, thấy đa số Tăng Ni của Phật Học Viện đã đến tuổi thọ giới, ngài cho mở giới đàn và thân làm đàn chủ.

Để ổn định kinh tế tự túc ở Phật Học Viện, ngài cho một số Tăng theo học cách thức chế biến và mở hãng sản xuất xì dầu (nước tương), hương đèn, dấm ăn, xà phòng, sử dụng sức lao động của nội chúng và Phật Tử chưa có việc làm gần chùa. Hầu hết Học Tăng của Phật Học Viện đều được ngài cho học cả hai chương trình nội điển và thế tục. Nhờ hướng đào tạo đó mà nơi đây đã là nguồn cung cấp liên tiếp những Chánh Đại Diện Giáo Hội các tỉnh, quận, hoặc giảng sư, trụ trì, hiệu trưởng, giám học các trường Bồ Đề, quản lý nhà in, nhà phát hành kinh sách… khắp miền Trung. Về sau, một số đã trở thành giảng sư, giáo sư đại học trong ngành văn hóa giáo dục phục vụ đạo và đời.

Năm 1960, ngài tạo mãi miếng vườn ở quận Gò Vấp, Sài Gòn, khai kiến tu viện Quảng Hương Già Lam. Năm 1962, ngài dẫn đầu phái đoàn Phật Giáo Việt Nam tại miền Nam tham dự đại lễ thế giới kỷ niệm năm 2500 đức Phật nhập Niết Bàn, tại vương quốc Lào.

Phật Đản năm 1963 khởi đầu thời pháp nạn, ngài về Huế cùng các vị lãnh đạo Phật Giáo hướng dẫn phong trào tranh đấu bảo vệ đạo pháp và dân tộc cho đến khi bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam giữ. Ngày 1.11.1963, chế độ bạo quyền sụp đổ. Qua cơn pháp nạn, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, được thành lập với 11 tập đoàn các hệ phái Phật Giáo toàn miền Nam và miền Bắc Việt Nam di cư, ngài được bổ nhiệm vào Ban Dự Thảo Hiến Chương Giáo Hội. Trong nhiệm kỳ đầu, ngài đảm nhiệm Tổng Vụ Hoằng Pháp. Công việc hoằng pháp và giáo dục Tăng Ni là mối quan tâm hàng đầu của ngài. Ở nhiệm vụ và vai trò này, ngài đã mở ba Đại Hội Hoằng Pháp: một tại Phật Học Viện Nha Trang, một tại chùa Xá Lợi, Sài gòn và một tại chùa Ấn Quang, (Chợ Lớn). Hoạt động và thành tích hoằng pháp đều tổng kết ghi lại trong ba tập kỷ yếu Đại Hội. Ngài còn thành lập Giảng Sư Đoàn và cắt cử mỗi vị phụ trách một tỉnh để diễn giảng Phật pháp cho tín đồ. Về sau, ngài còn thành lập Phật Học Viện Phổ Đà ở Đà Nẵng.

Năm 1964, ngài thân làm Viện Trưởng Viện Cao Đẳng Phật Giáo thành lập tại chùa Pháp Hội, Sài Gòn. Đây là tiền thân của Viện Đại Học Vạn Hạnh. Ngài còn chủ trương các tập san Tin Phật, Bát Nhã để gióng tiếng pháp cho đời. Năm 1965, sau khi ổn định mọi Phật sự, ngài hành hương chiêm bái các danh lam Phật tích ở Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Hồng Kông, Đài Loan, giao thiệp với nhiều danh tăng các nước.

Sau thời làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp, ngài lại được Giáo Hội trao giữ nhiệm vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tài chánh. Năm 1968, ngài được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chính thức cử hành lễ tấn phong Hòa Thượng. Cùng năm này, Hòa Thượng khai giới đàn tại Phật Học Viện Nha Trang. Năm 1969, ngài đại trùng tu Tổ đình Báo Quốc.

Từ Đại Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kỳ 5 và 6, Hòa Thượng giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, đến năm 1975 kiêm Phụ Tá Đức Tăng Thống cho đến khi đất nước và đạo pháp chuyển qua giai đoạn lịch sử mới.

Năm 1976, Hòa Thượng lại tổ chức đại giới đàn Quảng Đức tại Tổ đình Ấn Quang, Chợ Lớn.

Trước chiều hướng mới và cũng thể theo ý hướng thống nhất mà xưa nay Phật Giáo Việt Nam vẫn thường ấp ủ. Sau hòa bình, trong cương vị Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng đã liên lạc chư tôn túc lãnh đạo các hệ phái và các tổ chức Phật Giáo khác trong cả nước, bàn bạc việc thống nhất Phật Giáo Việt Nam. Chính đây là nguyện vọng chung của toàn thể Tăng Ni và Phật Tử. Nguyện vọng này đã thể hiện cụ thể tại Đại Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kỳ 7 họp tại chùa Ấn Quang, Chợ Lớn, ngày 23.1.1977 gồm 160 đại biểu của 54 đơn vị trong Giáo Hội mà Hòa Thượng nhân danh Viện Trưởng tân nhiệm đã ký thông bạch 7 điểm trong đó có điểm thứ sáu nguyên văn như sau: “Đại Hội cẩn ủy Giáo Hội Trung Ương tiếp tục vận động thống nhất Phật Giáo cả nước trong tinh thần đạo pháp và truyền thống dân tộc”.

Sau khi Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo thành hình, Hòa Thượng được bầu làm Trưởng Ban Vận Động và khi Hội Nghị Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 7.11.1981, Hòa Thượng đắc cử Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nhiệm kỳ đầu tiên.

Những năm cuối của báo thân, tuy tuổi già sức yếu, Hòa Thượng vẫn không xao lãng việc đạo, việc đời. Năm 1979 và 1982, dẫn đầu đoàn đại biểu Phật Giáo Việt Nam dự Đại Hội thứ 5 và thứ 6 của tổ chức Phật Giáo Châu Á Vì Hòa Bình tại Mông Cổ. Năm 1980 làm trưởng đoàn đại biểu tôn giáo Việt Nam dự hội nghị các nhà hoạt động tôn giáo thế giới vì hòa bình và giải trừ quân bị, chống chiến tranh hạt nhân tổ chức tại Nhật Bản. Năm 1981 làm trưởng đoàn đại biểu Phật Giáo Việt Nam dự hội nghị các nhà hoạt động tôn giáo thế giới vì hòa bình và sự sống, chống chiến tranh hạt nhân, tổ chức tại Liên Xô, cũng năm này kiến tạo thêm chánh điện tu viện Quảng Hương Già Lam. Năm 1983 dự hội nghị các vị đứng đầu Phật Giáo năm nước Châu Á, tổ chức tại Lào.

Dù bận rộn Phật sự suốt con đường hành đạo, Hòa Thượng vẫn dành thì giờ phiên dịch kinh, biên soạn sách để hoằng dương giáo hóa. Các tác phẩm chính gồm:

-Kinh Phổ Môn;
-Kinh Phổ Hiền;
-Mẹ Hiền Quán Âm;
-Kinh Vô Thường;
-Kinh A Di Đà;
-Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo;
-Kinh Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng;
-Kinh Bất Tăng Bất Giảm,
-Pháp Môn Tịnh Độ;
-Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa;
-Luật Tỳ kheo;
-Luật Bồ Tát;
-Luật Tứ Phần;
-Luận Khuyến Phát Bồ Đề Tâm;
-Nghi Thức Truyền Giới Bồ Tát Tại Gia và Thập Thiện;
-Nghi Thức Phật Đản;
-Nghi Thức Lễ Sám Buổi Khuya và các tác phẩm khác đã in hoặc chưa in.
 

Thâm hiểu và cảm thông nghiệp lực nhân sinh, lân mẫn chúng Tăng Ni không giữ trọn nguyện ước thanh quy giới luật phải hoàn tục sống đời thế gia, Hòa Thượng lập Chúng Dược Vương để quy tụ và sinh hoạt với số đông Phật Tử vốn đã có thời gian ươm mầm hộ trì chánh pháp này.

Mãn báo thân 76 tuổi đời, 56 hạ lạp. Vào lúc 21 giờ 30 ngày 2 tháng 4 năm 1984 (nhằm ngày 2 tháng 3 năm Giáp Tý) Hòa Thượng thị tịch tại Quảng Hương Già Lam, quàn tháp tại đây chờ di quan phụng Tổ tại tổ đình Báo Quốc theo nguyện ước lúc sinh tiền.


Trình bày và nhuận sắc từ TÂM NHƯ TRÍ THỦ






HT_Tri_Thu_6
KHƠI MỞ LỐI VỀ TÂM SỰ
VƠI ĐẦY NHỚ KẺ TRỒNG CÂY


Thời gian trôi nhanh, thật như bóng câu qua cửa sổ! Mới hôm nào Hòa thượng Thích Trí Thủ tiễn chân tôi ra sân bay đi Hà Nội để lo việc giảng dạy tại Trường Cao Cấp Phật học Cơ sở I tại chùa Quán Sứ, mà bây giờ đã gần đến ngay giỗ đầu của Hòa thượng.

Những ba năm, mỗi trang lịch dần dần đi vào dĩ vãng, nhưng lại vương đọng trong lòng nỗi ngậm ngùi, tiếc thương về một bóng hình, một bóng hình in đậm vào tâm hồn tôi và chắc chắn cũng khắc sâu vào tâm hồn của Tăng Ni Phật tử, cho dù trước giờ phút giã biệt thân tứ đại, trở về cõi an nhiên tự tại, Hòa thượng đã không để lại một lời.

Tôi nhớ rõ và thực sự xúc động cái sáng sớm mồng 3 tháng 3 năm Giáp Tý ấy lúc tôi đang ở tại chùa Quán Sứ, bỗng nhận được tin Hòa thượng đã vĩnh viễn ra đi xa, và xa tất cả chúng ta.

Từ đó đến giờ vẫn trong hình ảnh “nhạn quá trường giang, ảnh trầm hàn thủy, nhạn vô lưu tích chi ý, thủy vô lưu ảnh chi tâm. Nhưng thực ra, bóng nhạn vẫn chập chờn với dòng sông và dòng sông đang gợn sóng theo bóng nhạn. Cảnh sắc sắc không không, tháng ngày vẫn vơi đầy nhớ kẻ trồng cây.

Tuần qua, tôi lại nhận được thư của anh em ở các Phật học viện và pháp tử của Hòa thượng, ngỏ ý cùng nhau ghi lại một số tâm tình về Hòa thượng và đề nghị tôi cho lời mở đầu để gọi là chút truy niệm ngày giỗ đầu của Người đã khuất.

Thấy tinh thần của anh em tôi hết sức mừng, đây là điều đáng duy trì và phát huy. Tục ngữ ta có câu “ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Nhớ ơn và đền đáp công ơn đó cũng là quy luật đạo đức và đó cũng là hạnh nguyện lớn của hành giả, trên bước đường tu học.

Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là một trong muôn ngàn cách biểu lộ lòng biết ơn đối với những vị dày công đóng góp cho Đạo pháp, cho Dân tộc và ngay cả cho mỗi người chúng ta. Ta thường nghe: “ngôn ngữ đạo đoạn.” Lời sẽ hạn chế đạo, hình thức lắm khi cũng làm giảm thiểu ý nghĩa. Cảm quan ta, ngôn từ ta, sẽ lúng túng, vụng về trước tác phẩm của vạn vật, trước những công đức “hành vô hành hành”. Nhưng có điều tôi cũng đồng ý với anh em “bất ngôn , thùy tri kỷ chi”. Vì thế càng viết càng thấm, càng thấm càng cảm, càng cảm càng thương, mối giao cảm sẽ tỏa ngời ánh sáng, tương quan liên hệ mật thiết nước với nguồn, nguồn với nước, kẻ ăn trái, người trồng cây có thể tiệm cận nhau, gặp gỡ nhau trong không gian đích thực của dòng sinh diệt, diệt sinh vẫn chung về một nẻo.

Có điều đang làm tôi lo lắng, lễ giỗ đầu của Hòa thượng cũng đã gần kề, liệu chúng ta có thực hiện đuọc như ý nguyện? Dù sao những cánh chim nơi mọi phương trời vẫn nhớ về tổ ấm, ta đã, đang và sẽ mãi không quên một bóng hình đáng kính, đáng yêu.

Nhớ và tưởng niệm Hòa thượng trong niệm chân thành, với nén hương, với bình hoa đơn giản của nhà thiền dâng cúng Hòa thượng, ta mong ước như Hòa thượng từng ước mong: “sanh sanh dự Phật vi quyến thuộc , xứ xứ bồ đề kết thiện duyên”.

Ngàn xưa và ngàn sau trăng vẫn sáng, có câu “trăng lặn về non không trở lại”. Đường về xứ Phật vẫn tỏa ngát mùi sen. Xuất phát từ ý thức này , nơi cõi Lạc bang , Hòa thượng cũng nở nụ cười hoan hỷ chứng cho lòng thành của tất cả chúng ta.

NAM MÔ LẠC BANG GIÁO CHỦ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT.

Huế , ngày Rằm thàng giêng năm Đinh Mão

Cảm niệm ,

Pháp lữ : Hòa thượng THÍCH THIỆN SIÊU





HT. Thich Tri Thu
Nhớ Thầy
Kính viếng cố Hòa thượng THÍCH TRÍ THỦ


THANH TỊNH

Cho dù Thầy đã đi xa
Quê hương xin giữ bao la bóng Thầy,
Sông Hương thấm mát bờ cây
Ba-la [1](1) rực chiếu áng mây tỏa hồng
Thầy ơi , Thầy có biết không ?
Đài sen lớn mãi giữ lòng nhân dân
Nhớ Thầy đã mở mùa xuân
Ngay trong mưa gió mùa đông tơi bời ,
Nhớ Thầy xưa cảnh chơi vơi
Gắn lòng đất nước với đời Từ bi
Nhớ thương Thầy đã ra đi
Rất xa mà lại sử thi rất gần
Sớm chiều còn vọng chuông ngân
Còn nghe tiếng nói vì dân của Thầy
12.11.1984

[1] Chùa Ba-la ở Huế , nơi Hòa thượng Thích Trí Thủ bước vào cuộc đời tu hành .




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/04/2016(Xem: 8707)
Năm 2013 vừa qua, chúng ta vừa cử hành trọng thể Lễ Kỷ Niệm 50 năm Bồ Tát Quảng Đức khắp nơi trên thế giới. Một con người vĩ đại với một hy sinh vĩ đại vì tiền đồ đạo pháp và dân tộc, không bút mực nào tả xiết, không có sự hy sinh nào có thể sánh bằng, thật như lời thơ của thi sĩ họ Vũ: “Một Mặt Trời Mới Mọc“.
25/04/2016(Xem: 12836)
Hôm nay Thứ bảy 23/4/2016, Chúng con môn đồ pháp quyến, đệ tử cung thỉnh Chư Tôn Thiền Đức Tăng, Ni quang lâm Chùa Duyên Giác, San Jose, CA, USA. Chứng Minh Lễ tưởng niệm Cung tiến Giác Linh cố Thượng Tọa Thích Minh Phát, Lễ Giổ tưởng niệm Ân Sư lần thứ 20, có sự Chứng Minh của Chư Tôn Đức: HT. Thích Minh Đạt, HT. Thích Thái Siêu, HT. Thích Nhựt Huệ, TT. Thích Tâm Phương, TT. Thích Đồng Trí, TT. Thích Minh Thiện, cùng Chư Tôn Đại Đức Tăng, Quý Sư Bà, TN. Nguyên Thanh, NS. TN. Như Phương, Ns. Tn. Quảng Tịnh, cùng chư tôn đức Ni, đáp lời cung thỉnh quang lâm chứng minh hộ niệm. Môn đồ Pháp quyến Thành kính đảnh lễ tri ân Quý Ngài, sau đây những hình ảnh được ghi lại.
14/04/2016(Xem: 14371)
HT Tăng Giáo Trưởng còn nổi tiếng là người trực tánh, nói thẳng, nhất là việc phá tà hiển chánh, những điều trái ý nghịch lòng HT ít khi giấu kín trong lòng. Một lần nọ, HT đến dự hội thảo về Giáo Dục tại Victoria Uni do GS Phan Văn Giưỡng mời, trong hội nghị trường có trên 20 Giáo Sư Đại Học khắp thế giới, một bà giáo sư đến từ Anh Quốc đứng lên chỉ trích giáo lý Bát Chánh Đạo của Phật Giáo, ý nói rằng Giáo lý này có gì hay ho đâu mà mỗi lần đến hội nghị cứ nghe các đại diện PG cứ nhắc đi nhắc lại hoài, thật là nhàm chán. HT Tăng Giáo Trưởng không dằn lòng được sự chỉ trích vô minh này, Ngài đã đứng lên hỏi ngay " thưa GS, GS làm nghề gì ? tôi dạy học " , " học trò của GS có hiểu bài GP giảng không ? có, vậy GS có đi ăn trộm không ? bà GS há hốc mồm khi nghe câu hỏi chói lỗ tai này. Nhưng HT đã chúc mừng bà GS đã sống theo giáo lý chánh nghiệp, chánh mạng, chánh ngữ, chánh tư duy của Bát Chánh Đạo rồi mà không hề biết, cả hội trường đều vỗ tay tán thán HT và bà GS sau đó đã đến xin lỗ
12/04/2016(Xem: 12508)
Trong phiên họp của Hội Đồng Điều Hành của GH vừa qua tại Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 15 tại Sydney, đã quyết định tổ chức Đại Lễ Tri Ân nhị vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Giáo Hội là Trưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư HT Thích Như Huệ. Buổi lễ sẽ tổ chức long trọng trong dịp Chư Tôn Đức về dự Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17 của GH tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu. Để cho buổi lễ tri ân được thập phần viên mãn, Ban Biên Tập Trang Nhà Quảng Đức xin gởi Thư Ngỏ này tha thiết kính thỉnh Chư Tôn Đức và quý Phật tử gần xa, hoan hỷ viết bài (thơ, văn, cảm niệm...) và gởi hình ảnh lưu niệm về nhị vị Trưởng Lão Hòa Thượng, nhất là những hình ảnh mang tính lịch sử như Lễ Đặt Đá Xây Dựng Chùa, các Khóa Tu, các kỳ Lễ lớn trong năm... tất cả những tài liệu này đều quý báu, ghi đậm dấu ấn bước chân hoằng pháp lợi sinh của nhị vị Trưởng Lão. Xin quý Ngài và quý vị hoan hỷ gởi tài liệu qua email: [email protected] trước ngày 20-04-2016 để Ban
26/03/2016(Xem: 8240)
Viên Giác tự – Chùa xưa còn đó mà Thầy đã quãy dép quy Tây Chùa Viên Giác tọa lạc trên một khu đất rộng trên đồi cao tại Cầu Đất, xã Xuân Trường, Tp Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, cách trung tâm thành phố ngàn hoa khoảng chừng 30 km về hướng Đông Nam, trên độ cao 1650 m. Điểm nhấn của Cầu Đát có đồi chè với màu xanh ngắt ngút ngàn là một trong hai điểm đến mới nổi cực kỳ thu hút khách du lịch Đà Lạt tới tham quan. Trải dài trên diện tích 230 ha, đồi chè Cầu Đất dễ khiến những tín đồ của màu xanh lá phải bàng hoàng ngỡ ngàng trước cảnh sắc “đất xanh ngắt, trời xanh trong”. Thêm vào đó, không gian yên tĩnh, không khí mát lành cùng hương gió vấn vương vị chát chát đặc trưng của chè càng khiến Cầu Đất thêm phần hấp dẫn và lôi cuốn. Năm ở độ cao khoảng trên 1000m so với mực nước biển nên cảm nhận đầu tiên khi dừng chân tại chùa Viên Giác – Cầu Đát chính là nền nhiệt khác hẳn với quãng đường bạn đã băng qua trước đó. Vừa đến chân đồi việc đầu tiên cảm nhận được chính là sương mù. Đặc biệt vào nhữn
21/03/2016(Xem: 9940)
Chùa Đức Viên được Sư Bà Đàm Lựu sáng lập vào năm 1980. Sư Bà người làng Tam xá, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, Việt Nam. Xuất gia từ nhỏ tại chùa Cự Đà, năm 1951, Sư Bà thọ giới Tỳ kheo ni tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Năm 1952, Sư Bà học đạo tại chùa Dược Sư, Sài Gòn. Năm 1964, Sư Bà đi du học ở Tây Đức. Năm 1979, Sư Bà đến Hoa Kỳ. Năm 1980, Sư Bà về thành phố San Jose hành đạo và sáng lập chùa Đức Viên. Sau 19 năm tận tụy, chăm lo việc đạo, việc đời, Sư Bà quy Tây năm 1999. Việc tiếp tục kiến tạo ngôi già lam trang nghiêm, an tịnh, nổi tiếng được các Ni sư Đàm Nhật, Ni sư Đức Hòa cùng Ni chúng và quý Phật tử tín tâm thực hiện trong nhiều năm qua.
11/03/2016(Xem: 29184)
Tin từ Thượng Tọa Thích Nguyên Đạt, Chùa Việt Nam, Texas, hôm Thứ Năm, 10-3-2016, cho biết rằng Thầy Thích Nhuận Châu, tại Thành Phố Tampa, Florida đã tịch vì tai nạn xe. Theo bản tin của trang mạng Đài Truyền Hình Bay News 9 hôm Thứ Tư, 9-3-2016, được cập nhật hôm Thứ Năm, 10-3, chi nói đến một người đàn ông 40 tuổi mà không cho biết danh tánh là ai, nhưng tin từ Thầy Nguyên Đạt cho biết đó là Thầy Thích Nhuận Châu. Sau đây là bản dịch tin của trang mạng Bay News 9.
17/02/2016(Xem: 8607)
Hoà thượng Thích Giải Trọng thế danh là Đinh Quý, sinh ngày mồng 06/11/Bính Tuất tại làng Ngọc Tứ, xã Thanh Phong, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là thôn Ngọc Liên, xã Điện An, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Con ông Đinh Tín, pháp danh Như Tín và bà Đoàn Thị Giảng pháp danh Thị Thuyết, một gia đình có truyền thống Phật Giáo. Hoà Thượng là con thứ 4 trong gia đình có 6 người anh em, 3 trai và 3 gái.
01/02/2016(Xem: 22338)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 51 , tháng 2 năm 2016, • THƯ TÒA SOẠN, trang 2 • NGÀY XUÂN - LỄ PHẬT ĐẦU NĂM (Nguyên Siêu), trang 3 • HUYỀN NGHI, ÂM HƯỞNG, HOÀI CẢM (thơ Phù Du), trang 4 • Ý NIỆM VỀ MÙA XUÂN DI LẶC (Tuệ Như), trang 5 • TRÀ KHUYA & TRĂNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 6 • ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN HÁI LỘC (Pháp Hỷ), trang 7 • ĐẦU XUÂN KÍNH NGUYỆN (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 • MÙA XUÂN HOA NGHIÊM (Nguyễn Thế Đăng), trang 9 • BẢN HOÀI CỦA TU SĨ (Ns. Thích Nữ Trí Hải), trang 11 • BIỂN VÀ THƠ (thơ Minh Lương), trang 12 • SÁU PHÁP MÔN MẦU NHIỆM (Thích Thái Hòa), trang 13
01/02/2016(Xem: 15246)
“Đế Minh” là cháu ba đời Vua“Thần Nông”tuần thú, chuyển dời phương nam Đến núi Ngũ Lĩnh, (Hồ Nam) (1) Gặp nàng “Tiêngiới” lấy làm hân hoan Kết duyên chồng vợ vẹn toàn Sinh con: “Lộc Tục” hiền ngoan nhất đời “Đế Minh” quyết định truyền ngôi
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]