Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa thượng Thích Đắc Pháp (1938-2013)

04/04/202308:30(Xem: 1092)
Hòa thượng Thích Đắc Pháp (1938-2013)



ht dac phap 01
Hòa thượng Thích Đắc Pháp
(1938-2013)






Hòa thượng Thích Đắc Pháp, thế danh Thái Hồng Điệp, sinh năm 1938, tại xã Tường Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Thân phụ là ông Thái Văn Hai và thân mẫu là bà Bùi Kim Loan. Năm 1947, thân phụ Hòa thượng hy sinh trong khi bị giam cầm tại nhà lao Côn Đảo. Những tưởng được nương bóng mẹ hiền đến lúc lớn khôn, nhưng thật không may, hai năm sau, lúc Hòa thượng 12 tuổi, mẫu thân lại quy tiên. Mặc dù không còn cha mẹ cận kề dạy bảo, nhưng với nghị lực cùng tinh thần hiếu học và nền nếp đạo đức gia đình từ xưa, Hòa thượng đã tự rèn luyện bản thân về cả tri thức và đạo đức cho đến lúc trưởng thành.

Năm 1957, sau một cơn trọng bệnh, Hòa thượng về chùa Sơn Thắng của Sư bà Diệu Tánh để điều dưỡng và công quả. Tại đây, cơ duyên đến với Phật pháp của ngài được phát khởi. Trong thời gian này, ngài đã đọc rất nhiều kinh sách Phật giáo sẵn có trong chùa. Nghiên cứu Phật pháp kết hợp với thân bệnh, ngài càng nhận chân rõ hơn giáo lý vô thường trong nhà Phật.


Sau khi thấy rõ cuộc đời vốn là vô thường tạm bợ, thấy rõ Phật pháp là con đường duy nhất đưa con người đi đến an lành giải thoát, năm 1958, ngài đến Phật học đường Nam Việt (chùa Ấn Quang) quy y làm đệ tử cư sĩ với Hòa thượng Thích Thiện Hòa. Cũng trong năm này, ngài được Hòa thượng Thích Thiện Hòa gửi xuống Trà Vinh và cho xuất gia tại chùa Phước Hòa - tỉnh Trà Vinh, làm đệ tử của Hòa thượng Thích Thanh Từ.


Sau khi xuất gia, ngài đã được thọ giới Sa di năm 1959 tại giới đàn chùa Long Sơn và học Sơ đẳng Phật học tại chùa Phước Hòa, tỉnh Trà Vinh. Năm 1962, ngài được thọ giới Tỳ kheo tại Sài Gòn.


Sau khi mãn khóa Sơ đẳng tại Trà Vinh, ngài cùng thầy Thích Ngộ Chơn và Thích Phước Thọ theo Hòa thượng Huệ Hưng về Mỏ Cày - Bến Tre học thiền với Thiền sư Đức. Học thiền hơn một năm, ngài cùng hai thầy Thích Ngộ Chơn và Thích Phước Thọ lên chùa Tập Thành ở Gia Định, ý định mở mang thiền học. Nhưng cơ duyên chưa đủ, cũng vào thời điểm đó, Hòa thượng Thích Thanh Từ từ Phương Bối Am trở về thành lập Phật học viện Huệ Nghiêm và gọi các thầy về nhập học, thế là kế hoạch tạm thời bị gián đoạn.

Sau khi bế giảng lớp Trung đẳng khóa I tại Phật học viện Huệ Nghiêm, các Hòa thượng trong ban lãnh đạo nhận thấy: muốn Phật pháp phát triển thật sự thì phải đi sâu vào vấn đề tu tập nội tâm, nên Hòa thượng Thích Thiền Tâm về Đại Ninh chuyên tu Tịnh Mật, Hòa thượng Thích Thanh Từ nhập thất chuyên tu Thiền và Hòa thượng Thích Bửu Huệ thì về tại Long An. Trong thời gian này, ngài cùng Hòa thượng Thích Phước Hảo được đề cử làm Giám học tại Phật học viện Huệ Nghiêm.

Sau khi Hòa thượng Thích Thanh Từ tìm ra con đường Thiền tông và tuyên bố tiếp tục sự nghiệp hoằng pháp. Năm 1970, ngài về Vũng Tàu tham gia khóa Thiền đầu tiên cùng 10 vị tăng nội trú và khoảng 40 vị ngoại trú tham học. Trong khóa tu 3 năm này, ngài đã nỗ lực hạ thủ công phu, lại phụ giúp Hòa thượng ân sư phiên dịch một số tác phẩm Thiền tông, trong đó tiêu biểu là tác phẩm Chơn Tâm Trực Thuyết và Tu Tâm Quyết. Mãn khóa đầu tiên, được sự ấn chứng Thiền tông của Hòa thượng ân sư nên ngài về lại chùa Sơn Thắng vào năm 1975 để tu tập và hoằng pháp.

Trong thời buổi đất nước vừa thống nhất, kinh tế còn khó khăn, ngài đã tổ chức làm meo nấm rơm và làm tương để tự túc kinh tế, không trông chờ sự cúng dường của đàn việt. Đến năm 1977, Hòa Thượng bắt đầu tiếp Tăng độ chúng, và những vị đệ tử xuất gia đầu tiên nay là Thượng tọa Thích Trí Hải, Thượng tọa Thích Minh Đạo, Thượng tọa Thích Trí Thông, đây là những vị có công rất lớn và hỗ trợ đắc lực cho Hòa thượng trong mọi công tác Phật sự nơi bổn tự cũng như ngoài xã hội. Tính đến nay, số đệ tử xuất gia của Hòa thượng là 61 vị và trên 5.000 đệ tử tại gia.

Năm 1981, tại Đại hội Thống nhất Phật giáo toàn quốc, Hòa thượng là người đại diện Phật giáo tỉnh Vĩnh Long đi tham dự và được suy cử làm thành viên trong Hội đồng Trị sự Trung ương. Đồng thời, Hòa thượng cũng là thành viên Ban Vận động Thành lập Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Vĩnh Long. Năm 1983, Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Vĩnh Long chính thức được thành lập, Hòa thượng giữ cương vị là Phó Ban Thường trực Ban Trị sự nhiệm kỳ I và sau đó đảm nhiệm cương vị Trưởng Ban Trị sự các nhiệm kỳ II, III, IV, V và VI.

Bên cạnh trọng trách nặng nề trong Giáo hội Phật giáo tỉnh nhà, Hòa thượng còn là Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Vĩnh Long liên tiếp 4 nhiệm kỳ (từ nhiệm kỳ II đến nhiệm kỳ VI).

Nhằm nâng cao trình độ Phật học cho Tăng ni, cũng như đào tạo thế hệ Tăng tài cho Giáo hội, Hòa thượng cùng chư Tôn đức trong Ban Trị sự thống nhất ý kiến xin thành lập Trường Cơ bản Phật học (nay là Trường Trung cấp Phật học tỉnh Vĩnh Long). Năm 1990, khi trường được thành lập thì Hòa thượng được đề cử làm Hiệu trưởng.



ht dac phap 7ht dac phap 4ht dac phap 3ht dac phap 1ht dac phap 0



Hòa thượng suốt đời tận tụy vì sự nghiệp phục vụ cho Giáo hội một cách trọn vẹn. Mặc dù nhiều lúc không được khỏe, nhưng ngài không khi nào quên nhiệm vụ hoằng pháp lợi sanh. Hòa thượng từng làm Hòa thượng Đàn đầu của nhiều Giới đàn trong và ngoài tỉnh. Ngài thường nhắc nhở Tăng ni cần phát huy tinh thần đoàn kết, hòa hợp, phụng sự, để tiến tu trên con đường đạo pháp. Ngài rất chú trọng đến truyền thống An cư kiết hạ hàng năm, và luôn khuyến khích Tăng ni trau dồi Giới Định Tuệ để xứng đáng là bậc mô phạm của cuộc đời.

Mùa Đông năm Nhâm Thìn (2012), Hòa thượng lâm trọng bệnh. Mặc dù đã dốc lòng chữa trị cùng sự hỗ trợ của các đệ tử, Phật tử và các y, bác sĩ… nhưng sức khỏe vốn yếu, thân xác lại vô thường, nên Hòa thượng đã quyết định về Phật. Ngài đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 15 giờ, ngày 18. 01. 2013, nhằm ngày 7 tháng Chạp, năm Nhâm Thìn. Trụ thế 75 tuổi, Hạ lạp 50 năm.

Hòa thượng đã xả báo thân huyễn mộng để vào cõi Niết bàn tịch diệt, làm tròn bổn phận một vị Tăng già bằng tinh thần “Thượng hoằng Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”. Hòa thượng xứng đáng là bậc Thạch trụ Tòng lâm, một bậc cao Tăng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

PHỤNG VỊ TRÚC LÂM THIỀN PHÁI, SƠN THẮNG ĐƯỜNG THƯỢNG THƯỢNG ĐẮC HẠ PHÁP THÁI CÔNG HÒA THƯỢNG GIÁC LINH.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 775)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33722)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4675)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4644)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4607)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4561)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4884)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4611)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7546)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
23/10/2010(Xem: 8594)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567