Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thành Kính Tưởng Niệm Cố Ni trưởng Thích nữ Như Phương ( 1948 -2022 )

27/10/202217:30(Xem: 1730)
Thành Kính Tưởng Niệm Cố Ni trưởng Thích nữ Như Phương ( 1948 -2022 )
su ba nhu phuong 2

TIỂU SỬ
NI TRƯỞNG THÍCH NỮ NHƯ PHƯƠNG
( 1948 -2022 )
-  Nguyên Trưởng ban Văn hóa Phật giáo quận Tân Bình
                 - Chứng minh Ni giới Phật giáo quận Tân Bình
    - Viện chủ chùa Vô Ưu, phường 8, quận Tân Bình, TP.HCM


I.THÂN THẾ :

       Cố Ni trưởng Thích nữ Như Phương, thế danh Lê thị Thanh Cúc, sinh năm Mậu Tý     (1948),  xuất thân trong một gia đình nông nghiệp, tin Phật và phụng thờ Tam Bảo tại làng Tam Tân, xã Tân Tiến, thị xã LaGi, tỉnh Bình Thuận. Thân phụ là cụ ông Lê Thanh Trước -Pháp danh Minh Tiền, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Đặng- Pháp danh Thục Bông. Ni trưởng là con gái trưởng trong một gia đình có 6 chị em. Thuở nhỏ, Ni trưởng đã mến mộ Phật Pháp và tham gia sinh hoạt gia đình Phật tử tại chùa làng. Năm Canh Tý ( 1960) nhân ngày vía đức Bồ Tát Quán Thế Âm, Ni trưởng cùng thân phụ và em trai lên núi Tà Cú lễ Phật tại tổ đình Linh Sơn Long Đoàn (chùa dưới). Ni trưởng được duyên lành đảnh lễ Đại lão Hòa thượng Quảng Nhơn- Ấn Tâm làm thầy truyền tam quy giới, ban cho tự Thục Hương, từ đó tâm bồ đề khai mở, chí cắt ái ly gia ngày thêm mạnh mẽ.

II.XUẤT GIA HỌC ĐẠO:

      Đầu xuân năm Bính Ngọ (1966), Ni trưởng từ giã song thân và quyến thuộc vào Sài Gòn cầu đạo giải thoát, đến Ni trường Từ Nghiêm đảnh lễ Sư trưởng Thích nữ Như Huệ, Quản Lý Phật học viện Từ Nghiêm làm thầy thế độ, được ban Pháp danh Nhựt Nguyện, nối dòng Thiền Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 41, nhập chúng tại chùa Từ Nghiêm để tu học

      Trong thời gian hành Điệu tại đây, Ni trưởng được chư Sư trưởng trong Ban Giám đốc Ni trường thương yêu và ân cần dạy bảo, cùng với sự nỗ lực của bản thân, Ni trưởng lần lượt trãi qua các chương trình đào tạo Sơ cấp, đến Trung cấp Phật học tại Ni trường.

      Mùa Phật đản năm 1967, Ni trưởng được Ban Giám đốc cho thọ giới Sa Di Ni phương trượng tại giới đàn chùa Từ Nghiêm.

Năm 1968, sau khi tốt nghiệp chương trình Trung Cấp Phật học tại Phật học Ni viện Từ Nghiêm, Ni trưởng theo lời kêu gọi của giáo Hội thi vào khóa đào tạo Sư Phạm mẫu giáo và Sơ Cấp do Tổng vụ Giáo dục tổ chức.

     Năm 1972, Ni trưởng được thọ giới Thức Xoa Ma Na tại Giới đàn chùa Từ Nghiêm. Ni trưởng với bản tánh hoạt bát, sống đơn giản, tinh tấn tu tập, hết lòng tận tụy với Phật sự, luôn chu tròn mọi công việc được phân công đảm nhận.

     Năm 1975, Ni trưởng được đăng đàn thọ Tỳ kheo Ni giới tại chùa Từ Nghiêm, đến năm 1977 thọ Bồ-tát giới tại tổ đình Ấn Quang. Được Ni trưởng Bổn sư ban pháp hiệu Như Phương, chính thực dự vào hàng cập đệ.

III. THỜI KỲ ĐẠO NGHIỆP

     Năm 1969, sau khi tốt nghiệp khóa đào tạo Sư phạm mẫu giáo và Sơ Cấp, Ni Trưởng được Hòa Thượng giám đốc Thích Tâm Thanh- mời dạy tại Trường Bồ Đề Hạnh Đức, quận Tân Bình. Năm 1972, Sư bà Diệu Không mời dạy tại Trường bán trú Kiều Đàm, quận 3.

      Năm 1974, Ni trưởng cùng với cố Ni trưởng Thích nữ Như Thọ sáng lập chùa Vô Ưu và Trường Mẫu giáo Sơn Ca tại số 170/111 Lạc Long Quân, Ấp Phú Trung, xã Phú Thọ Hòa, quận Tân Bình (nay chùa Vô Ưu số 55/26 Thành Mỹ, phường 8, quận Tân Bình).

      Ni trưởng từng tham gia Phật sự Giáo hội và các tổ chức với nhiều trọng trách được giao như: Chánh Thư ký Ban Đại diện  Phật giáo Việt Nam thống nhất  quận Tân Bình (nhiệm kỳ 1973-1977);  Thư ký Ban Liên Lạc các Cô Ký Nhi viện Phật giáo thuộc thành phố Sài Gòn từ năm 1975-1980; Thư Ký Ban kinh tế tự túc Tăng Ni từ năm 1976-1978; Giám đốc Ký Nhi viện Sơn Ca từ năm 1974-1980 ngoài ra còn tham gia  giảng dạy tại các Trường Bồ Đề suốt 10 năm.

 Ni trưởng luôn tự nhủ:

“ Kìa trong cõi Ta Bà miền uế độ

Bao căn cơ cần hợp với bao thân

Một thân ta lặn hụp giữa bể trần

Sao độ hết người trần đang lắm khổ

Đã biết thế phải nương bờ giác ngộ

Lòng thường tư muôn sanh chúng đang chờ

Nguyện sẽ về như muôn nhạc ngàn thơ

Dìu vạn loại qua cầu về bến giác …”

     Vì thế, từ năm 1980, Ni trưởng trở về với cuộc sống ẩn dật chuyên tu, đạm bạc qua ngày, hướng dẫn đồ chúng tu học, mỗi năm đều nhập thất chuyên tu nhiều lần lo cho việc sanh tử đại sự. Tuy nhiên vẫn thường xuyên tham gia những chương trình Phật sự tại địa phương cũng như của Giáo hội, đặc biệt là công tác từ thiện xã hội. Ngoài ra, trên phương diện là trụ trì Ni trưởng đã tổ chức đạo tràng tu Bát Quan trai  mỗi tháng 2 lần vào các ngày ngày rằm và mùng 1.

     Năm 1998, nhận thấy chùa Vô Ưu xuống cấp, không đáp ứng đủ điều kiện cho Ni chúng và Phật tử  sinh hoạt cũng như tu tập. Ni trưởng cùng cố Ni trưởng Như Thọ đã xin phép Đại Trùng tu. Lễ Đặt đá khởi công vào ngày 1/2/ Kỷ Mão (1999) và hoàn thành trang nghiêm tú lệ dưới sự cầu nguyện trợ duyên của chư tôn đức Tăng, Ni và  sự nhiệt tâm ngoại hộ của  thiện tín Phật tử gần xa.

      Năm 2002 tại Đại hội Phật giáo toàn quốc lần V, Ni trưởng được Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam tấn phong lên hàng giáo phẩm Ni sư.

      Năm 2011, vì muốn cho các Phật tử hành chuyên và đúng hướng pháp môn Tịnh Độ, Ni trưởng đã mở pháp hội niệm Phật mỗi tháng một kỳ vào chủ nhật cuối tháng, duy trì suốt hơn 10 năm cho đến khi TP.HCM bùng phát dịch

     Năm 2020, Ni trưởng nghĩ đến việc thắp sáng tương lai bằng con đường Giáo dục và khuyến tài, nên thành lập quỹ học bổng: “ Vì ngày mai tươi sáng” giúp đỡ cho hàng trăm học sinh, sinh viên vượt khó học tập.

      Sư thường khuyên nhủ các hàng đệ tử :

Tình Sư và nghĩa đệ

Như Trăng sáng đêm rằm

Tròn đầy và xinh đẹp

Nhờ y pháp uyên thâm.”

     Ni trưởng thường bảo: Thân tuy cư trần thế, mà niệm ở Tây Phương. Cho nên, việc gì cần làm thì làm, làm để tích lũy thiện căn, vun bồi phước đức. Việc gì không cần đến mình, thì không quản đến. Người luôn ý thức:

                            “Không biết tùy duyên sống

                              Quyền lực phủ rong rêu

                              Chiều về hai tay trắng

                              Đường quê thêm tiêu điều ”

 

      Năm 2011: Ni trưởng làm Uỷ viên Ban Từ thiện-Xã hội Phật giáo TP.HCM.

      Năm 2013, sau khi Ni trưởng Thích Nữ Như Thọ viên tịch, Ni trưởng được Ban Trị sự GHPGVN TP.HCM  Bổ nhiệm làm trụ trì chùa Vô Ưu, nhưng Ni trưởng luôn tâm niệm như một gạch nối tạm thời cho người sau.

Năm 2016: Ni trưởng đảm trách Trưởng ban Văn hóa GHPGVN quận Tân Bình

      Năm 2017: tại Đại hội Phật giáo toàn quốc lần VII, Ni trưởng được Trung ương GHPGVN tấn phong lên hàng giáo phẩm Ni trưởng.

     Năm 2021: Ni trưởng được cung thỉnh chứng minh Ni giới Phật giáo quận Tân Bình

      Hơn  40 năm cùng cố Ni trưởng Thích nữ Như Thọ điều hành Phật sự, Ni trưởng đã thành tựu những công tác Phật sự và hướng dẫn đồ chúng tu học. Đối với Ni chúng và Phật tử, Ni trưởng là chỗ dựa tinh thần. Dù là Phật tử hay không, bất kỳ ai tiếp xúc với Ni trưởng đều cảm nhận sự hiểu biết, thân thiện và chân thành. Ni trưởng luôn được đồ chúng kính thương.

      Trước giờ lâm biệt, Ni trưởng dạy rằng :

“ Tay sạch làm giàu sang

Nghiệp sạch làm áo gấm

Người hành giả về quê

Mĩm cười qua cõi tạm .”

IV. THỜI KỲ VIÊN TỊCH:

    Duyên trần đã mãn, những việc nên làm đã làm, thuận thế vô thường , Ni trưởng với cõi lòng bình an như mây trắng thảnh thơi, người đã xả báo thân và nhẹ nhàng về cõi vô tung bất diệt vào lúc:18 giờ 30 Phút, ngày 25 tháng 10 năm 2022 (nhằm ngày mùng 1, tháng10, năm Nhâm Dần) tại thiền thất chùa Vô Ưu, phường 8, quận Tân Bình , TPHCM, trụ thế : 75 năm- Hạ Lạp : 47 năm

     Ni trưởng một đời tận tụy phụng Đạo giúp Đời nên âm dung của người vẫn đậm nét trong tâm hồn những ai từng hữu duyên diện kiến. Với môn đồ đệ tử xuất gia tại chùa Vô Ưu, người là vị nghiêm Sư từ mẫn hôm nay và mãi mãi về sau.

      Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhất Thế, Vô Ưu tự khai sơn húy thượng Nhựt hạ Nguyện, tự Thục Hương, hiệu Như Phương Ni trưởng giác linh thùy từ chứng giám.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 728)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33661)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4666)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4631)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4595)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4549)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4868)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4595)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7536)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
23/10/2010(Xem: 8577)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567