Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thanh Huyền [1945-2022]

11/09/202205:28(Xem: 2057)
Tiểu Sử Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thanh Huyền [1945-2022]
ht thanh huyen 2

TIỂU SỬ
CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THANH HUYỀN
[1945-2022]


Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên GHPGVNTN.
Nguyên Chánh Thư Ký Hội Đồng Tăng Già Bản Thệ.
Nguyên Trưởng Ban Thường Trực Hội Đồng Giáo Giới GĐPTVN.

  1. THÂN THẾ:

Hòa Thượng thế danh Lê Quang Thiện, sinh năm Ất Dậu (1945) tại làng Trà Trì, xã Hải Xuân, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ngài là con út trong gia đình có 7 anh chị em gồm 4 trai, 3 gái; được song thân là Cụ ông Lê Quang Thiếp, pháp danh Tâm Thừa, tự Thiện Lợi và Cụ bà Nguyễn Thị Thiện, pháp danh Chơn Quả, thọ tại gia Bồ-tát giới nuôi dạy trong nề nếp gia phong kính tin Tam Bảo.  

  1. XUẤT GIA HỌC ĐẠO:

Ấu thời, Ngài được thân phụ tạo cơ duyên quy y đầu Phật với Hòa Thượng Trừng Hóa – Hưng Dụng tại chùa Phật Học Quảng Trị, được ban pháp danh là Tâm Hiền.


Ngài được giáo dưỡng trong gia đình huyết thống có nhiều vị xuất gia học Phật nên chí nguyện xuất trần được phát sinh trong lòng Ngài từ rất sớm. Năm lên 8 tuổi, Ngài được người anh trong thân tộc là Hòa Thượng Thích Chánh Kế đưa vào chùa Hải Đức, Huế tập sự xuất gia tu học với Hòa Thượng Thích Phước Huệ.


Năm lên 10 tuổi, Ngài được Hòa Thượng Thích Chánh Kế đưa vào chùa Linh Quang, Đà Lạt tu học, được Hòa Thượng Thích Minh Cảnh thế độ. Những tháng ngày sơ tâm xuất gia hành điệu, Ngài được Hòa Thượng Thích Minh Cảnh dạy dỗ, hướng dẫn tu học thuần thục hai thời công phu, bốn quyển Luật tiểu, cùng với những phép tắc uy nghi của người xuất gia; được Ân Sư thế độ truyền Sa-di giới, ban pháp tự Thanh Huyền. Trong giai đoạn này Ngài được theo học các chương trình văn hóa phổ thông.

Năm 1965, được Hòa Thượng Thích Minh Cảnh gửi về Huế tu học tại Phật Học Viện Báo Quốc. Năm 1968, hội đủ nhân duyên, Ngài thọ Tỳ-kheo Bồ-tát giới tại Giới Đàn Phật Học Viện Hải Đức, Nha Trang do Đức Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVNTN, Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết làm Hòa Thượng Đàn Đầu, Hòa Thượng Thích Trí Thủ làm Đàn Chủ.

Vốn có túc duyên với Phật Pháp, Phật chủng được hàm dưỡng từ ấu thời nơi làng quê và gia đình có truyền thống Phật Giáo Đại Thừa nên Ngài tu học rất tinh chuyên:

  • Hòa Thượng đã thọ học với Hòa Thượng Thích Đôn Hậu về Kinh, Luật, Luận như học Luật tại chùa Linh Mụ; Đồng Mông Chỉ Quán tại chùa Linh Quang; Kinh A-di-đà sớ sao, Kinh Duy-ma-cật, Kinh Pháp Hoa tại chùa Báo Quốc, Huế.
  • Học Lăng Nghiêm Trực Chỉ với Hòa Thượng Thích Mật Hiển tại chùa Trúc Lâm, Huế.
  • Học Thành Duy Thức Luận với Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Tổ đình Từ Đàm, Huế.
  • Hòa Thượng hành trì pháp môn Tịnh Độ, cộng với hạnh nguyện độ sanh nên đối với mọi công việc Phật sự, Chư Tôn Đức giao trách nhiệm nào thì Hòa Thượng làm việc rất cần mẫn và hoàn tất một cách tốt đẹp.

25 năm tại Huế, sau Phật Học Viện Báo Quốc, Hòa Thượng đã tu học và quản trị chùa Thiên Minh, tu học tại chùa Từ Đàm.

Đến năm 1993, Hòa Thượng vào tu học và hành đạo tại Quảng Hương Già Lam, Sài Gòn.  

  1. THỜI KỲ HÀNH ĐẠO:

Phụng hành ý chỉ Tăng sai, Hòa Thượng từng đảm nhiệm các Phật sự:

  • Giảng dạy và làm Giám học tại Trường Bồ Đề Tây Lộc, Huế.
  • Cố Vấn Giáo Hạnh Gia Đình Phật Tử Thừa Thiên.
  • Đặc Ủy Thanh Niên của Ban Đại Diện GHPGVNTN Tỉnh Thừa Thiên.
  • Phụ trách Văn Phòng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.
  • Tổng vụ trưởng Tổng Vụ Thanh Niên – Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, được suy cử tại Đại Hội Nguyên Thiều năm 2003.
  • Đệ tam Phó thượng thủ Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh GĐPTVN từ năm 2006 đến năm 2012.
  • Trưởng ban Ban Thường Trực Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh GĐPTVN (nay là Hội Đồng Giáo Giới GĐPTVN) từ năm 2012 – 2016.
  • Chánh thư ký Hội Đồng Tăng Già Bản Thệ từ năm 2016 – 2019.
  • Từ năm 2019 đến ngày viên tịch, Hòa Thượng là Thành viên Hội Đồng Tăng Già Bản Thệ.


Đối với việc nhiếp hóa đồ chúng, Ngài chỉ có một vị đệ tử xuất gia là Thượng Tọa Thích Tịnh Quang, hiện tu học và làm Phật sự tại chùa Khuông Việt, Paris, Pháp quốc.

Trong cuộc đời hành đạo của Hòa Thượng, Ngài từng được cung thỉnh vào hàng Giáo Thọ A-xà-lê, Tôn Chứng Tăng-già tại các Giới Đàn truyền thọ Sa-di, Tỳ-kheo, Bồ-tát giới cho Chư Tăng và các Giới Đàn truyền thọ Thập Thiện giới, Tại Gia Bồ-tát giới cho Huynh Trưởng, Đoàn Sinh GĐPTVN các cấp và Phật Tử tại gia phát tâm cầu thọ giới pháp do Hội Đồng Tăng Già Bản Thệ, Hội Đồng Giáo Giới GĐPTVN kiến đàn, GĐPTVN các cấp trên thế giới tổ chức tại chùa Bửu Lâm, chùa Phật Ân, tu viện Quảng Hương Già Lam, chùa Pháp Vân, và tại Thái Lan.

Pháp Nạn của Phật Giáo Việt Nam năm 1963 và 1966, 1967, Hòa Thượng cùng Chư Tôn Đức và Tín đồ dấn thân cho công cuộc vận động bình đẳng tôn giáo. Trong hình ảnh vị Tăng sĩ tại Đà Lạt, hay cải trang thành người bán bánh mì ở Huế, có lúc vào nhà giam, Hòa Thượng vẫn nêu cao tinh thần vô úy góp phần bảo vệ Phật Giáo.  

Dù hoàn cảnh nhiều khó khăn sau năm 1975, nhưng với sứ mạng Trưởng tử Như Lai và trách nhiệm người Thầy hướng dẫn các tổ chức thanh niên Phật Tử, đặc biệt là Gia Đình Phật Tử, Hòa Thượng đã cùng Cố Hòa Thượng Thích Như Đạt, Hòa Thượng Thích Thái Hòa vượt mọi khó khăn, khéo léo vận dụng phương tiện để chăm sóc đời sống tu học của Phật Tử tại các Khuôn Hội vùng sâu, vùng xa nơi thôn quê, gìn giữ tín tâm, sức sống Tình Lam của các đơn vị GĐPT tại Thừa Thiên.

Với tâm nguyện hướng về quê hương, Hòa Thượng đã cùng Chư Tôn Đức đồng hương Trà Trì vận động trùng tu chùa Liên Trì làm nơi tu học cho Phật Tử tại ngôi làng yêu thương, nơi xuất sanh nhiều vị Tôn đức góp phần gìn giữ mạng mạch Phật Pháp, và Ngài còn góp phần trùng tu chùa Sắc Tứ Tịnh Quang, Quảng Trị. Hòa Thượng đã khai sơn chùa Liễu Quán tại huyện Củ Chi, Sài Gòn.

Nhân duyên của GĐPT được nương tựa Hòa Thượng, và Ngài đã cùng Chư Tôn Đức đồng phạm hạnh yêu thương, giáo dưỡng, tạo thắng duyên cho GĐPTVN gìn giữ được truyền thống tu học, sinh hoạt của mình trước nhiều chướng duyên. Tại Đại Hội Huynh Trưởng cấp Dũng, cấp Tấn toàn quốc thu hẹp năm 1995 tổ chức nơi Trại Trường GĐPTVN (Đà Lạt), Hòa Thượng đã quang lâm chứng minh, tác thành cho Phật sự công cử Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN tiếp nối tiền nhân gìn giữ tinh thần Sen Trắng sau những tháng ngày gian khó.


Tiếp nối những tháng ngày chăm sóc đàn con Lam Thừa Thiên, Hòa Thượng vào Sài Gòn tiếp tục bản nguyện tài bồi cho bao thế hệ áo Lam GĐPTVN trưởng thành trong chánh pháp từ sự quan tâm, chứng minh, ban pháp từ trong các Phật sự trại huấn luyện, tu học, đại hội, hội thảo,… của GĐPTVN các cấp trên thế giới trong gần 30 năm qua.

Bằng sự cẩn thận, chu đáo, và khả năng tin học được tiếp cận sớm, Hòa Thượng đã âm thầm góp phần chế bản, hiệu đính bộ Phật Quang Từ Điển, công trình của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ.

Với sự am hiểu nghi lễ tường tận, đạo phong trang nghiêm, tâm từ rộng lớn, Hòa Thượng là vị Gia trì sư, Sám chủ các Trai đàn, các đạo tràng kỳ nguyện, tưởng niệm với thiền âm sâu lắng, Hòa Thượng đã khai mở, hướng dẫn tu học và nuôi lớn đạo tâm của tín đồ qua những nhân duyên cử hành pháp sự khoa nghi.  

  1. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG:

Thân tứ đại của Hòa Thượng theo thời gian suy giảm, huyễn thân thọ bệnh nhiều năm, nhưng Hòa Thượng vẫn an nhiên với đời sống giản dị, duy trì công tác Phật sự không ngừng nghỉ, nhiếp niệm công phu, tùng chúng hành trì.

Phật sự cuối cùng Hòa Thượng thực hiện đó là vận động tài chánh ủy lạo cho Lam Viên và người dân nghèo tại châu Phi nhân mùa Phật Đản PL.2566.

Những ngày cuối mùa An Cư PL.2566, sau cơn tai biến trong thời khóa hành trì buổi sáng, với 10 ngày điều trị tại bệnh viện và tịnh trú tại Quảng Hương Già Lam trong sự chăm sóc của đại chúng Tu viện và các y bác sĩ. Với sự thanh tịnh hộ niệm, trì tụng kinh A-di-đà của Hòa Thượng trú trì và Chư Tăng Quảng Hương Già Lam, đến đoạn “Chư Phật các phương hộ niệm” thì Hòa Thượng đã thu thần thị tịch vào lúc 05g00 ngày 19 tháng 7 năm Nhâm Dần (nhằm ngày 16/8/2022), trụ thế 78 năm, hạ lạp 54 năm.

Hòa Thượng tùy duyên xả báo thân về với Phật, nơi quốc độ này, Chư Tôn Đức đồng phạm hạnh từ nay vắng bóng một pháp lữ nhiệt thành, hàng tín đồ Phật Tử, Huynh Trưởng, Đoàn Sinh GĐPTVN các cấp trên thế giới mất đi một bậc Thầy tôn quý.

Nam Mô Tự Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tam Thế Việt Nam Phật Giáo Tăng Già Bản Thệ Hội Đồng Thành Viên Liễu Quán Tự Khai Sơn Húy Thượng Tâm Hạ Hiền Tự Thanh Huyền Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh.

oOo


NGUỒN GỐC TÀI LIỆU:

Hội Đồng Tăng Già Bản Thệ – Hội Đồng Giáo Giới GĐPTVN phụng soạn (tham khảo “Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Thanh Huyền” của Môn đồ Pháp quyến).

 

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 14964)
Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới, do TT Thích Nguyên Tạng biên soạn từ 1990
01/10/2014(Xem: 8554)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8655)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10316)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14224)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8401)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 17552)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 12132)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16763)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 13001)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]