Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài Nét Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Lương Phương Viện Chủ Tự Viện Phước Duyên – Huế

27/04/202216:37(Xem: 2640)
Vài Nét Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Lương Phương Viện Chủ Tự Viện Phước Duyên – Huế

Chan Dung_HT Thich Luong Phuong
Vài Nét Tiểu Sử

Hòa Thượng Thích Lương Phương

Viện Chủ Tự Viện Phước Duyên – Huế

 


 

Thân thế:

Hòa thượng thế danh là Võ Tấn, sinh ngày 6 tháng 7 năm Giáp tuất (1934), tại làng Thành Công, Quảng Công, Quảng Điền, Thừa Thiên.

Thân Phụ là cụ Ông Võ Sử. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Cháu và kế mẫu là cụ bà Lê Thị Đỡi. Gia đình có ba anh em trai, Hòa thượng là anh trai đầu.

Xuất gia tu học:

Lúc mười một tuổi, mẫu thân qua đời, thân phụ sống trong cảnh gà trống nuôi con, nên bước thêm bước nữa. Từ ấu thời, Hòa thượng đã cảm nhận sự bất toàn của cuộc sống, hư huyễn và cô độc của kiếp người, nên lúc lên 13 tuổi, (1946), phát tâm xuất gia hành điệu với Hòa thượng Thích Đảnh Lễ, Giám tự chùa Linh Mụ - Huế.

Năm 1948, Hòa thượng Bổn sư khai sơn chùa Phước Duyên, thì bấy giờ Hòa thượng cũng theo Bổn sư vào chùa Phước Duyên tu học.

Năm 1950, được Bổn sư trao truyền Sa di Thập giới với pháp danh Nguyên Tiến, tự Lương Phương.

Năm 1952, được Bổn sư cho đến cư trú tại Tịnh xá của Cụ bà Thái Thúc Hoành, ở làng Xuân Hòa để tụng kinh hôm sớm và thuận lợi cho sự theo thế học.

Kể từ thời gian này và về sau, Hòa thượng theo học cả hai chương trình Phật học ở Phật Học Đường Báo Quốc và thế học tại trường Trung học Bán Công và Hàm Nghi Huế cho đến khi hoàn tất chương trình Tú tài của Phật học lẫn thế học.

Năm 1965, Hòa thượng được Bổn sư cho thọ Tỷ kheo, Bồ tát giới tại Đại giới đàn Vạn hạnh, tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu – Huế.

Năm 1967, theo học lớp chuyên khoa Phật học ngoại trú ở chùa Linh Quang Huế, do Hòa thượng Thích Mật Nguyện tổ chức và chủ giảng và nằm trong giảng sư đoàn của Giáo hội.

Trú trì và độ chúng:

Năm 1968, Hòa thượng Bổn sư qua đời, bấy giờ Hòa thượng vào chùa Phước Duyên đảm nhiệm Trú trì tiếp Tăng độ chúng, trông coi các Phật sự. Chỉnh trang lại chùa chiền bị hư hại trong biến cố Mậu thân 1968. Chủ trương canh tác ruộng vườn, tự lực kinh tế, sống nếp sống thiểu dục tri túc.

Năm 1970, Hòa thượng trùng tu Khách đường.

Năm 1999, trận đại hồng thủy ở miền Trung, nhất là ở Thừa Thiên – Huế bị thiệt hại nặng nề, cơ sở vật chất của tự viện bị xuống cấp trầm trọng, nên năm 2000, Hòa thượng quyết định đại trùng ngôi Chánh điện và cổng Tam quan.

Năm 2007, xây dựng Tàng Kinh Các để lưu giữ Tam tạng Thánh giáo.

Năm 2010, xây dựng Hậu đường và tiếp theo là xây dựng khu Tịnh Quang Thiền đường, khu Tăng xá, khu trai đường, Đoàn quán GĐPT và Học đường Từ Thiện tiếng Anh…

Năm 2014, xây dụng khu Tịnh Nhân Thiền đường, gồm Khất thực đường, Cư xá, Giảng đưòng, Mạn-đà-la Ngũ phương Phật, Thư viện, Địa tạng lâu các, Tây phương Tam thánh lâu các, hồ tâm…

Tu tập và hoằng pháp:

Hòa thượng tu tập theo pháp môn trì danh niệm Phật, thường là mật niệm và thường hành trì thần chú Chuẩn đề. Khiêm cung và hỷ xả là một trong những hạnh mà Hòa thượng thực hành rất miên mật, nên trong ứng xử hàng ngày Hòa thượng thường thể hiện tâm kính trên nhường dưới, vì vậy mà rất được mọi thành phần từ Tăng sĩ đến xã hội phần nhiều đều thương quý.

Hòa thượng thường giúp cho các trẻ em khó nuôi, khóc dạ đề đều được an ổn qua sự trì niệm minh chú.

Tuy không chủ giảng các lớp học và đạo tràng tu học tại chùa, nhưng Hòa thượng luôn luôn hỗ trợ, tạo pháp lý và động viên cho các học chúng Chánh Niệm, Thanh Tuệ, GĐPT, Chánh Tâm, Văn Thù, Chuyển Dịch, Thiện Tài Đồng Tử, Đạo Tràng Sám Hối, Đạo Tràng Tịnh Độ… tu học qua hạnh nguyện Bồ đề bằng thân giáo.

Hòa thượng cũng từng làm Giáo thọ sư cho các Giới đàn tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu và Quốc Ân cho hàng trăm giới tử.

Đối với đồ chúng xuất gia Hòa thượng đã thế độ và tác thành gần hai mươi vị, đứng đầu là Hòa thượng Thích Thái Thuận. Đối với hàng cư sĩ Hòa thượng quy y trên dưới vạn người.

Hiện nay Hòa thượng là một trong những niên trưởng và thành viên quản trị Tổ đình Từ Hiếu và đồng thời cũng là thành viên trong Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh.

Những ngày cuối cùng:

Câu nói nổi tiếng của Hòa thượng rất được nhiều giới truyền tụng: “Già rồi ngồi lại một bên, để cho con trẻ tiến lên cho kịp thời”.

Mùa an cư 2015, Hòa thượng chúng tập họp đồ chúng và tuyên bố, ngài tuổi già sức yếu, chỉ muốn yên tĩnh tu tập để đợi ngày về với Phật, giao chức vụ Trú trì chùa cho Thầy Thái Hòa đảm nhiệm và Hòa thượng chỉ làm Viện chủ danh dự mà thôi.

Đến cuối Thu năm 2021 ngài có chút bệnh duyên. Tuy Thân có chút mệt nhọc, nhưng tâm trí của Ngài vẫn luôn minh mẫn, nụ cười từ bi và sự hài hước vẫn luôn xuất hiện trên khuôn mặt của Ngài.

Trong thời gian bệnh duyên đó, Hoà thượng Tôn Sư của chúng con luôn được môn đồ pháp quyến và Bác sĩ Phật tử đến chùa tận tình chăm sóc, chu đáo, nhưng do tuổi già sức yếu, đèn thiền đến lúc vụt tắt. 

Hoà thượng Bổn Sư của chúng con đã an nhiên thị tịch vào lúc 5:30 phút ngày 26/3/Nhâm Dần ( nhằm ngày 26/4/2022) tại Phương Trượng Thiền Thất Phước Duyên Tự Viện-Phường Hương Long-Thành Phố Huế, trụ thế 89 xuân thu; 57 giới lạp chu viên.

 Sau những năm tháng ứng hiện giữa cõi Ta Bà, nay duyên mãn Ngài về miền Tịnh cảnh.

Sự ra đi của Hòa thượng Tôn Sư, 

đã để lại trong lòng hàng đệ tử, Tăng ni, Phật tử và thế quyến niềm kính tiếc vô cùng.

Thầy buông hơi thở về Tây

Còn nghe văng vẳng lời Thầy vọng vang

Kính dâng một biến kinh vàng

Nguyện Thầy về cõi Đạo Tràng Liên Hoa.



Nam Mô Tự Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tứ Thế Từ Hiếu Tôn Phong-Báo Ân Pháp Phái Trùng Kiến Phước Duyên Tự Viện-Viện Chủ Huý Thượng NGUYÊN hạ TIẾN tự LƯƠNG PHƯƠNG Trưởng Lão Hoà Thượng Giác Linh, Tác Đại Chứng Minh



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 9526)
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-l0-1917), tại làng Mỹ An Hưng ( Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là ông Nguyễn văn Cân và thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ Ông qua đời lúc H.T lên ba, Cụ Bà cũng theo Ông lúc Ngài vừa lên bảy.
09/04/2013(Xem: 8225)
Nước ta từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sông Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài.
09/04/2013(Xem: 12322)
Hòa Thượng Pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sanh năm Giáp Dần (1941), tại Xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, Tỉnh Ðịnh Tường (Nay là Tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là Ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Thu. Hòa Thượng theo họ mẹ, cũng là người con thứ ba trong gia đình gồm hai anh em.
09/04/2013(Xem: 7760)
Ôn Từ Đàm (Hòa thuọng Thích Thiện Siêu) với tôi vốn không có duyên nghĩa thầy trò; mặc dù, vào đầu thập niên 1960, Ôn là Giáo thọ tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang trong khi tôi là một học tăng ở đó. Những tháng năm này, tôi là nguòi được theo học trường Võ Tánh nên thời khóa sinh hoạt của tôi không bị câu thúc chặt chẽ; và vì vậy, ít có cơ hội gần gũi với các bậc thầy lớn như Ôn.
09/04/2013(Xem: 7217)
Trúc Lâm Đại sĩ là vua thứ tư nhà Trần, con của Thánh Tông, lên ngôi ngày 12 tháng 2 năm Mậu dần (1278). Trước khi Đại sĩ ra đời, Nguyên Thánh Hoàng Thái hậu nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm bảo : "Có lệnh của Thượng giới, cho phép ngươi được chọn lấy". Bỗng nhiên được kiếm, Thái hậu bất giác rất vui, nhân đó có thai. Những tháng dưỡng thai, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng như thường, chẳng cần kiêng cử mà thai cũng chẳng sao.
09/04/2013(Xem: 9068)
Đọc qua các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, chưa thấy một người nào đã chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình như Thiền sư Pháp Loa. Sư là một con người tích cực hoạt động, suốt đời tận tụy phục vụ đạo pháp cho đến hơi thở cuối cùng. Điều đặc biệt quan tâm của Sư là ấn hành Đại Tạng kinh, do đó đã đề xuất, tiến hành và in xong bộ Đại Tạng kinh Việt Nam. Ngoài ra, Sư đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo, thiết lập một Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên của Việt Nam, và Sư là người thứ nhất đúng ra thiết lập sổ bộ Tăng, Ni và tự viện trên khắp cả nước.
09/04/2013(Xem: 7701)
Sư người làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang. Thỉ Tổ của Sư là Lý Ôn Hòa, làm quan Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128 - 1138). Trải nhiều đời, đến Tổ phụ là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không không chịu ra làm quan, chỉ thích những chuyện hay, sách lạ, và vui thú ruộng vườn. Mẹ Sư là Lê Thị, vốn người hiền đức, bản tính nhân từ, năm 30 tuổi vẫn chưa có con trai. Nhân gặp lúc có bệnh dịch hoành hành, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, dừng chân tạm nghỉ tại một ngôi chùa tên Ma Cô Tiên.
09/04/2013(Xem: 7319)
Truyền thống Phật giáo Việt Nam từ truớc đến nay vốn thiên về Phật giáo Phát triển hay Đại thừa; mãi đến năm 1959 lần đầu tiên bộ kinh Trường A Hàm do Hòa thượng Thích Thiện Siêu phiên dịch được xuất bản thì Phật giáo Nguyên thủy mới được các Phật tử chú ý đến. Mặc dù bộ kinh này nằm trong Hán tạng thuộc hệ thống Phật giáo Phát triển, nhưng tinh thần của nó thì tương quan mật thiết với 5 bộ Nikàya trong giáo lý Nguyên thủy.
09/04/2013(Xem: 6812)
Phương Tây có câu tục ngữ "Hoạn nạn làm lớn con người". Phương Đông cũng có câu danh ngôn tương tự "Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm con người trên loài Người". Trường hợp của Trần Thái Tông sao mà ứng với hai câu này đến thế?
09/04/2013(Xem: 6740)
Hòa thượng Thích Thiện Châu Nguyên Đạo (Đọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu) Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]